(LLCT) – Không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên được Hồ Chí Minh quan tâm sâu sắc. Tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân của Người là một bản tổng kết về công tác xây dựng Đảng về đạo đức, thể hiện tầm vóc tư tưởng và giá trị chỉ dẫn thực hành đạo đức cách mạng, phòng chống chủ nghĩa cá nhân, trong đó có bệnh độc đoán, chuyên quyền của cán bộ, đảng viên. Những quan điểm đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị, nhất là đối với công tác xây dựng Đảng.
Không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên được Hồ Chí Minh quan tâm sâu sắc – Ảnh: Tư liệu
1. Mở đầu
Hồ Chí Minh đã khởi xướng một cuộc cách mạng về đạo đức, đặt nền móng cho xây dựng nền đạo đức mới “nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”(1). Tính “căn bản” của đạo đức cách mạng thể hiện ở cả khía cạnh động lực thúc đẩy và hướng dẫn, điều chỉnh nhu cầu, tự chủ bản thân trước mọi cám dỗ; giúp mỗi cán bộ, đảng viên vượt qua lợi ích cá nhân để hành động bằng sự thôi thúc của lương tâm, tinh thần tự nguyện, trách nhiệm tự giác; hướng tới lý tưởng cao đẹp, vì nước, vì dân, qua đó khẳng định tính chính đáng của Đảng cầm quyền.
2. Nguyên nhân của bệnh độc đoán, chuyên quyền
Theo Hồ Chí Minh, đối lập, trái ngược và làm băng hoại đạo đức cách mạng là chủ nghĩa cá nhân. Quan điểm về chủ nghĩa cá nhân của Người xuất phát từ thái độ, mối quan hệ giữa cá nhân với Tổ quốc, với chế độ, với Đảng, với nhân dân, với công việc, với các truyền thống tốt đẹp của dân tộc và chuẩn mực đạo đức cách mạng. Theo Người, chủ nghĩa cá nhân “là việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích riêng của mình, không quan tâm đến lợi ích chung của tập thể”(2). Vì tuyệt đối hóa lợi ích vị kỷ của cá nhân nên một số cán bộ, đảng viên “ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ”(3).
Như vậy, chủ nghĩa cá nhân là nguyên nhân của hàng loạt căn bệnh, trong đó có bệnh độc đoán, chuyên quyền. Độc đoán, chuyên quyền trái ngược với dân chủ; là sự coi thường tập thể, đề cao quyết định và vai trò của cá nhân; là việc sử dụng quyền lực không đúng đắn, muốn thâu tóm, khống chế quyền lực bằng một cơ chế tập trung quyền lực cao độ về mình; trấn áp tất cả để tuyệt đối hóa quyền lực của mình.
Ở bất kỳ đâu và bất kỳ lúc nào, quyền lực cũng luôn có hai mặt: trước hết, quyền lực tạo ra sức mạnh để người cán bộ thực hiện tốt những nhiệm vụ được giao, mặt khác quyền lực có xu hướng tha hóa; quyền lực càng cao thì nguy cơ tha hóa càng lớn. Do vậy, với một đảng cầm quyền, thì việc thực thi quyền lực phải đi liền với phòng, chống sự tha hóa quyền lực, nhất là với các cán bộ được trao quyền giữ các chức vụ trọng yếu trong Đảng, các cơ quan công quyền, các tổ chức chính trị xã hội, nhằm bảo đảm cho hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành được vận hành hiệu lực, hiệu quả; đồng thời, ngăn ngừa và phòng, chống các biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Do có quyền lực, người được trao quyền dễ bị nhầm lẫn quyền lực được nhân dân ủy nhiệm thành quyền lực cá nhân, tự coi mình trở thành “hiện thân” của quyền lực – đặt mình lên trên các nguyên tắc tổ chức của Đảng, dẫn đến từng bước vô hiệu hóa vai trò của tổ chức, làm mất đi tính tiên phong của Đảng cách mạng. Từ đó, người được trao quyền vượt quá “phạm vi quyền hành và trách nhiệm” của mình. Họ cản trở tự do và dân chủ, sử dụng quyền lực nhằm phục vụ cho quyền lợi bản thân, gia đình; lấy của công làm của tư hoặc ban phát ân huệ, tạo những vỏ bọc bảo vệ cho địa vị và những đặc quyền, đặc lợi của mình; thậm chí xâm phạm tới lợi ích của các thành viên khác.
Đảng cầm quyền phải đặc biệt chú ý việc chống độc đoán, chuyên quyền trong cán bộ, đảng viên vì nó là nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
Việc cán bộ độc đoán, chuyên quyền làm cho cấp dưới, mọi người bất mãn hoặc sợ sệt, không dám (hoặc không muốn) phát huy sáng kiến và lòng hăng hái trong công việc, tạo ra một thói xấu trong công sở là a dua, xu nịnh, dẫn tới mọi cái đều phụ thuộc vào một hay một vài cá nhân. Khi mắc căn bệnh này, cán bộ đảng viên không gắn trách nhiệm của mình với quyền lợi của tập thể. Họ thường tự kiêu, tự mãn với những hiểu biết của mình; tự cao tự đại, chỉ thích “nhìn từ trên xuống” khi phê bình người khác mà không muốn người khác phê bình mình.
Trong công việc, họ tự cho mình quyền hành động vô tổ chức, vô kỷ luật; trong chỉ đạo thì lộng quyền không theo nguyên tắc, quy chế, bất chấp dư luận và mắc các trọng bệnh là “con đẻ” của chủ nghĩa cá nhân như: bệnh chủ quan, bệnh hẹp hòi, bệnh nể nang, bệnh tham lam, bệnh lười biếng, bệnh kiêu ngạo, bệnh hiếu danh, thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc lãnh tụ, bệnh “hữu danh vô thực”, kéo bè kéo cánh; bệnh cận thị, bệnh tị nạnh, bệnh xu nịnh, a dua, bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, bệnh nóng tính…
Trong quan hệ với quần chúng, “Họ tự cho mình cái gì cũng giỏi, họ xa rời quần chúng, không muốn học hỏi quần chúng mà chỉ muốn làm thầy quần chúng”(4). Sự tha hóa này chính là căn bệnh làm mất đi tính tiền phong, gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên “khiến quần chúng không tin, không phục, càng không yêu họ”, dẫn đến rạn nứt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân, làm cho dân xa Đảng. Đó là nguy cơ lớn nhất đối với Đảng cầm quyền.
3. Phòng chống độc đoán, chuyên quyền theo chỉ dẫn của Hồ Chí Minh trong tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân
Trong tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo về chủ nghĩa cá nhân – căn bệnh gốc tạo ra sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên. Người không chỉ nêu tác hại và biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, mà còn xác định rõ: cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân là cuộc đấu tranh cam go, quyết liệt, lâu dài và gian khổ hơn cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bởi lẽ chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù không lộ nguyên hình, nó ẩn nấp trong tư tưởng, suy nghĩ và hành vi của mỗi cá nhân. Cán bộ, đảng viên giữ cương vị càng cao, quyền lực càng lớn mà mang nặng chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng thì càng nguy hiểm. Do vậy, ở phần cuối của tác phẩm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra giải pháp nhằm nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, trong đó có phòng chống căn bệnh độc đoán, chuyên quyền.
Tuy dung lượng chỉ gồm hai đoạn ngắn với 10 câu văn, nhưng Hồ Chí Minh đã 10 lần dùng từ “phải”, cũng như nhấn mạnh chữ “quét sạch”, thể hiện thái độ cương quyết, triệt để về tầm quan trọng và ý nghĩa sống còn của nhiệm vụ đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Trong đó, Người quy lại thành hai nhóm biện pháp chính, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”.
Về “xây”, Người coi trọng việc “tăng cường giáo dục toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên”(5), phải “thực hành tự phê bình và phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng”(6) và “hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên”(7). Trong đó, Người nhấn mạnh yếu tố tự rèn luyện, tự tu dưỡng của mỗi cán bộ, đảng viên “Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật. Phải đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Phải cố gắng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt mọi nhiệm vụ”(8).
Về “chống”, Người nhấn mạnh phải nâng cao “tính tổ chức và tính kỷ luật”, “chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc”(9) để giữ nghiêm kỷ luật của Đảng. Cuối cùng, “công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ”(10) để kịp thời phát hiện thiếu sót, sai lầm; từ đó có biện pháp khắc phục, sửa chữa và xử lý kỷ luật, làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh.
Có làm được như vậy, mỗi cán bộ, đảng viên mới thật sự là “những bông hoa tươi thắm của chủ nghĩa anh hùng cách mạng”(11), là hiện thân của “đạo đức, văn minh”, là niềm tự hào của Đảng và nhân dân, xứng đáng với vai trò vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác lập, củng cố và ngày càng nâng cao vai trò lãnh đạo, sức mạnh của mình đối với cách mạng và uy tín đối với nhân dân bằng chính bản lĩnh, lý luận tiên phong; bằng đường lối đúng đắn; bằng sự nêu gương, đạo đức trong sáng của đội ngũ cán bộ, đảng viên; bằng một tổ chức đoàn kết, thống nhất chặt chẽ, vững chắc; bằng mối liên hệ máu thịt với nhân dân, được nhân dân tin yêu, ủng hộ và bảo vệ.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, với trình độ dân trí và đòi hỏi về dân chủ của nhân dân không ngừng được nâng cao, trong tư duy, cách ứng xử và hành động mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ có chức có quyền cần phải khoa học, dân chủ, nhằm phát huy cao nhất trí tuệ, sức lực của tập thể, của nhân dân để xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh; Nhà nước hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đất nước phát triển thịnh vượng và bền vững.
Lối làm việc chuyên quyền, độc đoán, cách hành xử hách dịch, cửa quyền vốn là tàn dư của chế độ cũ, nó hoàn toàn xa lạ, trái ngược với tư tưởng tiến bộ, thái độ cầu thị, tác phong dân chủ, khoa học của người cộng sản.
Tuy nhiên, hiện nay trong điều kiện của nền kinh tế thị trường và những tác động từ môi trường văn hóa xã hội, do thiếu sự tu dưỡng, rèn luyện, một bộ phận cán bộ, đảng viên trong đó có cán bộ lãnh đạo cấp cao đã suy thoái, bị chủ nghĩa cá nhân “bịt mắt, bịt tai”, “kéo xuống dốc không phanh”. Hành động của họ gây nên hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, làm suy giảm năng lực của Đảng cầm quyền và hiệu lực của Nhà nước, gây bất bình trong nhân dân, ảnh hưởng đến vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ.
4. Thực hiện chỉ dẫn của Hồ Chí Minh trong phòng, chống căn bệnh độc đoán, chuyên quyền hiện nay
Do vậy, để chống chủ nghĩa cá nhân với những biểu hiện đa dạng, trong đó có căn bệnh độc đoán, chuyên quyền, trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, không ngừng học tập rèn luyện đạo đức cách mạng, vun đắp “gốc”, nền tảng phẩm chất người cán bộ, đảng viên
Chủ nghĩa cá nhân là “kẻ địch ở trong lòng”, nên muốn “chống” phải bắt đầu từ “xây” nguồn nội sinh vững mạnh trong mỗi cán bộ, đảng viên. Cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ có chức, có quyền luôn phải nhận thức sâu sắc về nguy cơ suy thoái quyền lực; tự ý thức về nguồn gốc và bản chất của quyền lực trong thể chế dân chủ, từ đó biết sử dụng quyền lực một cách đúng đắn. Vai trò quyết định trong chống chủ nghĩa cá nhân chính là nội lực của mỗi con người được bảo đảm bằng nền tảng đạo đức để đủ sức chế ngự và điều khiển hành vi, không vượt qua lằn ranh của pháp luật và đạo đức xã hội.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra cách “xây” thông qua giáo dục lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, đường lối của Đảng, nghĩa vụ đạo đức người đảng viên; định hình và làm cho các chuẩn mực đạo đức cách mạng thấm sâu, trở thành lẽ sống, phương hướng hành động trong các mối quan hệ, trong cả công việc và sinh hoạt đời thường. Sức mạnh của đạo đức chỉ được xác lập khi khơi dậy được ý thức tự giác của mỗi người để gạt bỏ cái xấu, cái ác, vươn tới cái cao đẹp, nuôi dưỡng cái thiện. “Xây” là cách làm cho đạo đức thật sự là “gốc”, là nền tảng, là cơ sở cho phòng ngừa nguy cơ sai lầm, tha hóa, biến chất.
Cán bộ, đảng viên ở chức vụ càng cao thì nguy cơ suy thoái và khả năng có thể độc đoán, chuyên quyền càng lớn, đòi hỏi phải có “nền”, “gốc” thật vững vàng, chắc chắn và không ngừng tu dưỡng, rèn luyện hằng ngày, đáp ứng sự thay đổi không ngừng của sự nghiệp cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng không phải là “ép xác” theo chủ nghĩa khắc kỷ, cũng như đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải từ bỏ hay giày xéo lên lợi ích cá nhân, mà là rèn luyện bản lĩnh đối mặt với cám dỗ, lấy đạo đức hướng dẫn, kiểm soát ham muốn, đề cao danh dự, trách nhiệm; đồng thời, không ngừng đáp ứng nhu cầu chính đáng; giải quyết thỏa đáng mối quan hệ lợi ích riêng với lợi ích chung. Người đảng viên, nhất là những người nắm quyền càng phải “Ít lòng tham muốn về vật chất”(12), phải nghiêm khắc với chính mình, biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến tập thể, biết nghe những lời “trái tai”, đề phòng những kẻ xu nịnh; rèn dũng khí đối mặt với những điểm yếu của bản thân, nêu cao ý thức tự chủ trước mọi hoàn cảnh.
Hai là, đề cao vai trò, trách nhiệm của tổ chức đảng trong phòng, chống độc đoán, chuyên quyền
Tổ chức Đảng phải tiến hành các giải pháp về chính trị, tư tưởng, tổ chức từ trong Đảng nhằm làm cho Đảng là môi trường cho sự hoàn thiện đạo đức cách mạng của đảng viên, là nơi không có điều kiện và cơ hội cho chủ nghĩa cá nhân phát tác; là tổ chức kỷ luật và dân chủ, không để căn bệnh độc đoán, chuyên quyền lộng hành.
Muốn vậy, cần thực hiện nghiêm chế độ sinh hoạt Đảng, thường xuyên đấu tranh tự phê bình và phê bình. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Không chịu nghe phê bình và không tự phê bình thì nhất định lạc hậu, thoái bộ. Lạc hậu và thoái bộ thì sẽ bị quần chúng bỏ rơi. Đó là kết quả tất nhiên của chủ nghĩa cá nhân”(13).
Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII thông qua Nghị quyết về xây dựng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên, trong đó đẩy mạnh tự phê bình và phê bình gắn với đổi mới sinh hoạt cấp ủy và chi bộ. Đây là khâu mấu chốt nhằm khắc phục căn bệnh độc đoán, chuyên quyền.
Đảng yêu cầu các tổ chức đảng khi tiến hành tự phê bình và phê bình phải nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nhất là những mặt còn yếu kém, không nể nang, né tránh; đề ra các biện pháp khắc phục, sửa chữa thiết thực, khả thi; kết hợp “chống và xây”, “xây và chống”, nói đi đôi với làm, tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc, trì trệ nhất hiện nay. Quá trình tiến hành kiểm điểm phải bảo đảm thật sự dân chủ, nghiêm túc, thẳng thắn với tinh thần xây dựng, đúng yêu cầu, nội dung, cách làm, thời gian mà Trung ương, Bộ Chính trị đề ra.
Ba là, phát huy dân chủ trong Đảng, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ
Trái ngược với độc đoán, chuyên quyền là dân chủ. Dân chủ trong Đảng là tất cả đảng viên đều được tự do bày tỏ chính kiến trong sinh hoạt đảng để thống nhất về quan điểm, chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng nghị quyết. Cán bộ lãnh đạo phải đặt mình trong tập thể, tôn trọng tập thể, lắng nghe ý kiến của tập thể, không bao giờ đặt mình cao hơn tổ chức, ở ngoài sự kiểm tra, giám sát của tổ chức, luôn tranh thủ bàn bạc với tập thể để có được quyết định chính xác và kịp thời nhất. Trong công tác lãnh đạo, quản lý mà thực hành được dân chủ, tôn trọng các quyết định của tập thể, biết lắng nghe ý kiến của mọi người thì sẽ phát huy được tính tích cực, tự giác, sáng tạo và quy tụ được sức mạnh, sự đồng tình ủng hộ của nhiều người, tạo nên sức mạnh to lớn để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ.
Dân chủ nhưng phải tập trung và luôn luôn phòng tránh căn bệnh dân chủ hình thức. Dân chủ tập trung để không dẫn đến độc đoán, chuyên quyền. Cán bộ lãnh đạo, nhất là người đứng đầu, người có trọng trách trong một tập thể, vừa phải thực hành dân chủ, lắng nghe ý kiến của tập thể, nhất là ý kiến phản biện trái chiều; đồng thời, phải quyết đoán, nhận thức đầy đủ trách nhiệm và dám ra quyết định, dám làm, dám chịu trách nhiệm.
Bốn là, hoàn thiện chể chế nội bộ, đề cao kỷ luật, kỷ cương
Không ngừng hoàn thiện các cơ chế, chính sách, pháp luật, đề cao kỷ cương, kỷ luật trong Đảng và pháp luật của Nhà nước trong các tổ chức đảng và các cơ quan nhà nước. Trước những biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống diễn biến phức tạp, thì phải tăng cường kỷ cương, kỷ luật để sàng lọc những thành phần thoái hóa, biến chất. Xử lý nghiêm các sai phạm để răn đe, cảnh báo, cảnh tỉnh, hỗ trợ cho công tác giáo dục đạo đức cách mạng, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình.
Đồng thời, chú trọng công tác kiểm tra, giám sát; coi kiểm tra và giám sát là điểm xuất phát, là khâu trung tâm trong phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội.
Thực tế cho thấy, “chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra”(14), nên thông qua công tác này để một mặt, kiểm tra tính đúng đắn, phù hợp của chủ trương, đường lối của Đảng so với thực tiễn, để có bổ sung, sửa chữa kịp thời; mặt khác, ngăn ngừa, khắc phục những biểu hiện tha hóa quyền lực của tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên có chức vụ như lạm quyền, lộng quyền, trục lợi từ chức quyền, vô hiệu hóa quyền, độc đoán, chuyên quyền, v.v.. Đối với người đứng đầu các cơ quan, càng cần chế độ kiểm tra nghiêm ngặt, thường xuyên thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm kín theo định kỳ và công khai kết quả sau khi lấy phiếu tín nhiệm. Đây cũng chính là một cách thức để lắng nghe được ý kiến phê bình của cấp dưới với cấp trên, trong khi tình trạng sợ mất lòng, sợ bị trù dập vẫn đang tồn tại dai dẳng.
Năm là, phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng
Không ngừng nâng cao dân trí, có cơ chế để nhân dân tham gia vào công tác xây dựng Đảng thực chất, hiệu quả. Đây là giải pháp vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài của công tác xây dựng Đảng, cũng như trong việc rèn luyện đạo đức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay.
Bên cạnh khuyến khích, động viên, cần xây dựng cơ sở pháp lý và thiết chế để bảo đảm cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội thực hiện có hiệu quả chức năng giám sát, phản biện xã hội đối với các hoạt động công quyền. Có như vậy, mới phòng ngừa, ngăn chặn được bệnh độc đoán, chuyên quyền trong điều kiện một Đảng duy nhất lãnh đạo, cầm quyền.
Chú trọng phát huy vai trò của phương tiện thông tin đại chúng trong việc lan tỏa giá trị đạo đức tốt đẹp của cán bộ, đảng viên và con người Việt Nam. Báo chí làm tốt chức năng phát hiện, lên án hiện tượng tiêu cực, suy thoái, tạo dựng môi trường xã hội lành mạnh cho cái tốt, cái thiện được phát triển.
Sáu là, phòng, chống độc đoán, chuyên quyền gắn với đấu tranh bảo vệ Đảng, chế độ
Lợi dụng một số hạn chế trong phòng, chống tiêu cực, sự suy thoái quyền lực trong một số cán bộ, các thế lực thù địch cố tình rêu rao, cho rằng căn bệnh độc đoán, chuyên quyền là thuộc về bản chất của đảng cộng sản. Do vậy, việc rèn luyện đạo đức cách mạng, phòng, chống căn bệnh độc đoán, chuyên quyền của cán bộ, đảng viên phải đặt trong mối quan hệ với cuộc đấu tranh chống “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Cần tuyên truyền mạnh mẽ và khơi dậy lòng yêu nước và niềm tự hào đối với Đảng, chế độ XHCN, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nước ta. Đồng thời, luôn nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng cho nhân dân; nhận diện, nắm vững và đập tan các âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch, phản động nhằm chia rẽ mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân.
5. Kết luận
Trong giai đoạn hiện nay, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII, XIII, Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Kết luận số 01-KL/TW ngày 18-5-2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05 thể hiện quyết tâm chính trị và tư tưởng nhất quán của Đảng về tầm quan trọng đặc biệt của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; khẳng định vị trí, vai trò của việc học tập Bác đối với công tác xây dựng Đảng về đạo đức trong giai đoạn hiện nay, góp phần tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức rèn luyện đạo đức cách mạng, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh” theo lời Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn.
NGUỒN TẠP CHÍ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
_________________
(1), (14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.292, 637.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.13, Sđd, tr.90.
(3), (5), (6), (7), (8), (9), (10), (11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Sđd, tr.547, 547, 547, 547, 547, 547, 547, 546.
(4), (13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Sđd, tr.609, 609.
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.2, Sđd, tr.280.