Theo Bonnie Glaser, cố vấn cấp cao về châu Á tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), trong tương lai Trung Quốc có thể sẽ quân sự hóa các đảo nhân tạo phi pháp ở Biển Đông theo ba hướng chủ yếu nhằm chống lại các chiến dịch FON của hải quân Mỹ.
Thứ nhất,Trung Quốc sẽ triển khai các phương tiện tình báo, giám sát, và trinh sát (ISR) tới các đảo nhân tạo mới được bồi đắp phi pháp ở khu vực Trường Sa của Việt Nam. Việc triển khai ISR giúp Trung Quốc tăng cường đáng kể khả năng nhận định tình huống trong khu vực, thu thập tin tức tình báo và các thông tin mục tiêu quan trọng khi cần. Việc bố trí trạm radar giám sát tầm xa trên đảo nhân tạo có thể giúp Trung Quốc phát hiện tàu và máy bay nước ngoài từ khoảng cách lên tới 320 km.
Máy bay tuần tra Y-8X của hải quân Trung Quốc khi triển khai trên đường băng dài 3.000 m trên đá Chữ Thập sẽ có khả năng xác định vị trí và theo dõi các tàu và máy bay hoạt động trong bán kính lên tới 1.600 km. Các phương tiện ISR của Trung Quốc cũng có thể được sử dụng vào mục đích thu thập tin tức tình báo cũng như thu thập các thông tin mục tiêu quan trọng khác.
Thứ hai,Trung Quốc có thể triển khai các hệ thống tên lửa đất đối không (SAM) và các tên lửa hành trình chống hạm (ASCM) trên các đảo nhân tạo phi pháp ở Biển Đông, có thể đe dọa máy bay, tàu hải quân Mỹ và đồng minh trong khu vực cũng như các bên có tranh chấp chủ quyền khác.
Quân đội Trung Quốc đã nỗ lực rất nhiều trong 20 năm qua để tăng cường năng lực tên lửa của họ. Nước này đang biên chế với số lượng tên lửa đất đối không và tên lửa hành trình chống hạm cho các lực lượng lục quân, hải quân và không quân. Các tên lửa HQ-9 và S-300 PMU-1 có thể tiêu diệt máy bay ở khoảng cách 150-200 km, trong khi các tên lửa ASCM như YJ-62 và YJ-83 phóng từ mặt đất có thể khống chế phần lớn Biển Đông với tầm bắn 120 – 400 km tính từ các đảo nhân tạo mà Trung Quốc bồi đắp phi pháp.
Mối đe dọa từ các loại tên lửa này sẽ buộc các cường quốc khu vực như Nhật Bản và Australia phải cân nhắc kỹ về hoạt động của các tàu và máy bay trên Biển Đông.
Thứ ba,Trung Quốc có thể sử dụng các đường băng và những cảng nước sâu để hỗ trợ cho các hoạt động của hải quân PLA và không quân (PLAAF) vươn ra ngoài Biển Đông.
Các đường băng và các cảng nước sâu trên đá Chữ Thập và đá Vành Khăn có thể đóng vai trò là các điểm tiếp tế và điều phối cho các tàu quân sự và chiến đấu cơ Trung Quốc, giúp chúng có tầm hoạt động xa hơn trên Biển Đông. Việc triển khai các máy bay có khả năng tiếp nhiên liệu trên không như tiêm kích J-11 giúp mở rộng phạm vi tuần tra của chiến đấu cơ Trung Quốc lên đáng kể, trong khi các máy bay ném bom chiến lược H-6K sẽ đặt các nước ở xa như Australia trong phạm vi không kích.
Theo Diplomat, về mặt logic, việc bố trí các vũ khí, khí tài hiện đại trên những hòn đảo bao quanh bởi nước mặn này sẽ gia tăng tỷ lệ hao mòn, hỏng hóc, gây tốn kém và gia tăng thách thức. Tuy nhiên, số vũ khí quân sự này cũng mang đến nhiều lợi ích rõ ràng mà Trung Quốc khó có thể phớt lờ.
Paul Giarra, chủ tịch công ty tư vấn quốc phòng và chiến lược của Mỹ Global Strategies & Transformation cho rằng, việc quân sự hóa các đảo nhân tạo sẽ đem đến cho Trung Quốc các lợi thế cơ bản như củng cố yêu sách chủ quyền phi lý của nước này ở Biển Đông, tạo vị thế tác chiến trên biển, và mở rộng phạm vi chiến lược chống tiếp cận/chống xâm nhập khu vực (A2/AD) mà Trung Quốc đang áp dụng.
Đối phó của Mỹ
Tham vọng tăng cường hiện diện quân sự của Trung Quốc trên Biển Đông buộc Mỹ phải cân nhắc các cách tiếp cận chiến lược mới, chủ yếu là vận dụng chiến lược “Bù đắp lần thứ ba”, tận dụng các ưu thế về công nghệ quốc phòng nhằm giảm thiểu rủi ro do các vũ khí chống tiếp cận, chống xâm nhập khu vực của PLA gây ra.
“Bù đắp lần thứ ba” là chiến lược Mỹ tập trung đầu tư cho vũ khí hạt nhân, năng lực kiểm soát vũ trụ, các cảm biến hiện đại, chiến tranh mạng và phòng thủ tên lửa, các thiết bị lặn không người lái, vũ khí tốc độ cao, vũ khí laser và công nghệ súng điện từ trường, nhằm giải quyết các mối đe dọa khu vực dựa vào ưu thế về công nghệ robot tự động và các công nghệ chủ chốt khác.
Theo ông Malcolm Davis, phó giáo sư Viện quan hệ quốc tế, Đại học Bond, Australia cho rằng, để đối phó với hoạt động quân sự hóa của Trung Quốc, Mỹ cần sự hỗ trợ của các các đồng minh và đối tác chủ chốt trong khu vực như Australia, ASEAN, Nhật Bản, Ấn Độ và Hàn Quốc nhằm khẳng định các nguyên tắc cơ bản như tự do hàng hải trên các vùng biển quốc tế.
Mỹ có thể tăng cường hợp tác quân sự với các nước trong khu vực, đặc biệt là Australia, đưa các lực lượng không quân, lục quân, hải quân tiếp cận nhiều hơn các căn cứ quân sự ở quốc gia này để có thể ứng phó kịp thời hơn với diễn biến tình hình.
Theo Sean P. Quirk, chuyên gia hải quân tại Diễn đàn Thái Bình Dương thuộc CSIS, Mỹ có thể ngăn chặn Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông bằng con đường ngoại giao, trên các diễn đàn song phương và đa phương cũng như “tăng cường trao đổi quân sự Mỹ – Trung để nêu quan ngại về các hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông”. Đồng thời, Washington cần chỉ rõ cho Bắc Kinh thấy họ sẽ phải đối mặt với những hậu quả quốc tế, bao gồm sự lên án của Liên hợp quốc và có thể là các biện pháp trừng phạt, nếu họ có những động thái quân sự hóa các các vùng biển quốc tế.
(Trung tâm Thông tin công tác tư tưởng Thành phố tổng hợp từ
Thông tấn xã Việt Nam và các báo)