Nghị quyết 54 của Quốc hội là sự thể chế hóa nhanh nhất ở cấp cao nhất một chỉ đạo của Đảng tại Kết luận 21-KL/TW ngày 24 tháng 10 năm 2017 của Bộ Chính trị. Với sự chuẩn bị nghiêm túc, khoa học và tinh thần trách nhiệm, quyết tâm đột phá của Ban Thường vụ Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, sự quan tâm, chỉ đạo đặc biệt của Bộ Chính trị, sự hướng dẫn và ủng hộ của các Ban, Văn phòng Trung ương Đảng, cùng với sự chỉ đạo và hỗ trợ hiệu quả của Chính phủ và các bộ ngành liên quan; sự chỉ đạo, hỗ trợ và triển khai hết sức khẩn trương của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các Ủy ban của Quốc hội; sự chia sẻ, đồng cảm của các địa phương trong cả nước, chỉ sau tròn 1 tháng, Nghị quyết 54 của Quốc hội đã được ban hành, đáp ứng đầy đủ quy trình thủ tục thông qua Nghị quyết tại một kỳ họp Quốc hội theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nghị quyết có hiệu lực từ ngày 15 tháng 1 năm 2018, tạo điều kiện cho Thành phố và các bộ ngành, Chính phủ và Quốc hội triển khai trong 3 năm cuối nhiệm kỳ 2016 – 2020.
Ban Thường vụ Thành ủy đã tập trung chỉ đạo việc chuẩn bị sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 16-NQ/TW ngày 10 tháng 8 năm 2012 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 và kiến nghị cơ chế, chính sách đặc thù để Thành phố phát triển nhanh, bền vững hơn, vì cả nước. Ban Thường vụ và Thường trực Thành ủy đã chủ động làm việc với 03 Ban Đảng, Ban cán sự Đảng Chính phủ, Đảng đoàn Quốc hội và 15 bộ ngành trong tháng 8 và tháng 9 năm 2017. Sau mỗi cuộc làm việc với các bộ, ban, ngành, Quốc hội và Chính phủ, Thường trực Thành ủy đã tiếp thu các ý kiến góp ý và liên tục cập nhật, hoàn chỉnh Báo cáo và Tờ trình của Đảng bộ Thành phố sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 16 của Bộ Chính trị.
Được sự quan tâm đặc biệt của Bộ Chính trị, ngày 19 tháng 10 năm 2017, Ban Thường vụ Thành ủy đã báo cáo Bộ Chính trị đề án Sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 16 của Bộ Chính trị. Sau phiên họp, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 21-KL/TW ngày 24 tháng 10 năm 2017, trong đó có nêu rõ “Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự Đảng Chính phủ chỉ đạo việc chuẩn bị trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV ban hành Nghị quyết cho phép Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù để Thành phố phát triển nhanh, bền vững hơn”. Với sự quan tâm, ủng hộ đặc biệt của Chính phủ, Quốc hội và các đại biểu Quốc hội, Nghị quyết được ban hành đảm bảo đầy đủ trình tự, thủ tục tại một kỳ họp Quốc hội.
Ngày 24 tháng 11 năm 2017, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết với tỷ lệ rất cao. Đây là sự tin cậy của Đảng, Chính phủ, Quốc hội và nhân dân cả nước đối với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố mang tên Bác, yêu cầu Thành phố phải phát triển nhanh hơn, bền vững hơn vì cả nước.
II. 5 lĩnh vực được Nghị quyết điều chỉnh khác với các quy định pháp luật hiện hành nhưng vẫn tuân thủ Hiến pháp – Động lực mới phát triển Thành phố
Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị đặc biệt, diện tích chỉ chiếm 0,6% diện tích cả nước, dân số chiếm hơn 9% dân số cả nước, song đóng góp gần 22% kinh tế (GDP) và khoảng 28% tổng thu ngân sách cả nước. Tăng trưởng kinh tế Thành phố trong 30 năm đổi mới bình quân 10,7%/năm, gấp 1,6 lần bình quân cả nước. Năng suất lao động của Thành phố gấp 2,7 lần năng suất lao động bình quân cả nước. Kết quả phát triển cao của Thành phố qua 30 năm đổi mới mà chưa có cơ chế, chính sách đặc thù là do tác dụng tổng hợp của nhiều yếu tố, nổi bật là: Thành phố có cơ cấu kinh tế hiện đại nhất cả nước (từ năm 1976, cơ cấu công nghiệp và dịch vụ đã chiếm trên 90% kinh tế Thành phố và từ năm 2015 chiếm hơn 99%); lao động Thành phố có trình độ thuộc nhóm cao nhất cả nước; Thành phố có số lượng doanh nghiệp nhiều nhất cả nước (chiếm 34% tổng số doanh nghiệp cả nước); Thành phố có lực lượng kinh tế tư nhân lớn nhất cả nước (vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân chiếm gần 65% tổng vốn đầu tư toàn xã hội của Thành phố năm 2016); Thành phố là trung tâm tài chính lớn nhất cả nước; năng suất lao động của Thành phố cao nhất cả nước; Thành phố có truyền thống năng động, sáng tạo, đổi mới…
Tuy nhiên, từ năm 2010 đến nay, phát triển Thành phố đã bộc lộ sự giảm tốc, thậm chí tụt hậu so với cả nước ở một số lĩnh vực (thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, xuất khẩu, tính hấp dẫn của môi trường cạnh tranh), các yếu kém về giao thông, ngập nước, chất lượng môi trường có xu hướng gia tăng. Tỷ lệ gia tăng người nghiện ma túy cao nhất và số vụ án được xét xử ở Thành phố nhiều nhất cả nước (chiếm khoảng 16% cả nước trong khi dân số chỉ chiếm hơn 9% dân số cả nước).
Để khắc phục hiệu quả các khó khăn kéo dài nói trên, xuất phát từ đặc thù của một đô thị đặc biệt, đang trên đường trở thành một siêu đô thị (dân số trên 10 triệu người, bình quân 7-8 năm dân số tăng 1 triệu người; mật độ dân số gấp 15 lần bình quân cả nước; cường độ kinh tế (GDP/km²) gấp 34 lần cả nước); đặc thù là một đô thị biển lớn, cuối sông, chịu ảnh hưởng biến đổi khí hậu nặng nề nhất trong 5 thành phố trực thuộc Trung ương; đặc thù là địa phương có tỷ lệ nộp ngân sách Trung ương trong tổng thu ngân sách trên địa bàn thuộc loại cao nhất cả nước và tỷ lệ được giữ lại để phát triển vào loại thấp nhất cả nước (18,2% tổng thu ngân sách trên địa bàn), thì Nghị quyết 54 của Quốc hội chính là một quyết sách quốc gia đột phá, đồng bộ, kịp thời, vừa quy định khác với pháp luật hiện hành trên 5 lĩnh vực, vừa tuân thủ nghiêm Hiến pháp 2013. Nghị quyết của Quốc hội là quyết định của cơ quan lập pháp cao nhất của đất nước, không được trái luật pháp, song được phép điều chỉnh các luật pháp hiện hành. Hơn nữa, đây là Nghị quyết cho phép thực hiện thí điểm trong 5 năm, đảm bảo quyền kiểm soát của Quốc hội trong suốt quá trình thí điểm.
Nghị quyết 54 của Quốc hội xác định 8 đối tượng áp dụng là: Các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, các tổ chức, cá nhân có liên quan.
Nghị quyết 54 của Quốc hội xác định 5 lĩnh vực điều chỉnh như sau:
1. Thẩm quyền quản lý đất đai:
Hội đồng nhân dân Thành phố được quyền quyết định chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa từ 10 ha trở lên trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trồng lúa đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
2. Thẩm quyền quản lý đầu tư:
Hội đồng nhân dân Thành phố được quyền quyết định chủ trương đầu tư đối với các dự án nhóm A sử dụng ngân sách của Thành phố theo quy định của Luật Đầu tư công, trừ dự án quy định tại điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 8 của Luật Đầu tư công.
3. Thẩm quyền quản lý tài chính – ngân sách nhà nước:
1. Hội đồng nhân dân Thành phố đề xuất để Chính phủ xem xét, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định áp dụng trên địa bàn Thành phố thí điểm tăng mức thuế hoặc thuế suất đối với một số hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế bảo vệ môi trường. Mức tăng thuế hoặc thuế suất không quá 25% so với mức thuế hoặc thuế suất hiện hành.
2. Hội đồng nhân dân Thành phố quyết định áp dụng trên địa bàn Thành phố phí, lệ phí chưa có trong danh mục kèm theo Luật Phí và lệ phí.
3. Hội đồng nhân dân Thành phố quyết định áp dụng trên địa bàn Thành phố tăng mức hoặc tỷ lệ thu phí, lệ phí đã được cấp có thẩm quyền quyết định đối với các loại phí, lệ phí nằm trong danh mục kèm theo Luật Phí và lệ phí.
4. Ngân sách Thành phố được hưởng 100% số thu tăng thêm từ các khoản thu do việc điều chỉnh chính sách thu quy định tại khoản 1, 2 và 3 nêu trên so với quy định hiện hành để đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách Thành phố và không dùng để xác định tỷ lệ phần trăm (%) đối với các khoản thu phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách Thành phố.
5. Căn cứ dự toán ngân sách nhà nước hằng năm đã được Quốc hội quyết định, Thủ tướng Chính phủ giao và căn cứ vào tình hình thực tế của Thành phố, Hội đồng nhân dân Thành phố quyết định dự toán, phân bổ ngân sách Thành phố bảo đảm phù hợp với các định hướng cơ cấu lại ngân sách, phát triển kinh tế – xã hội và các lĩnh vực quan trọng theo quy định của Quốc hội và Chính phủ.
6. Sau khi ngân sách thành phố bảo đảm đủ nguồn thực hiện cải cách tiền lương và các chính sách an sinh xã hội cho cả thời kỳ ổn định ngân sách theo quy định của cấp có thẩm quyền, Hội đồng nhân dân Thành phố được quyết định sử dụng nguồn thực hiện cải cách tiền lương còn dư của ngân sách cấp Thành phố; cho phép ngân sách cấp dưới sử dụng nguồn cải cách tiền lương còn dư để đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách và chi thu nhập tăng thêm; cho phép các cơ quan hành chính nhà nước, Đảng, đoàn thể, đơn vị sự nghiệp công lập sử dụng nguồn thực hiện cải cách tiền lương còn dư để tăng chi đầu tư, mua sắm, hoạt động chuyên môn của cơ quan, đơn vị và chi thu nhập tăng thêm.
7. Thành phố được vay thông qua phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, vay từ các tổ chức tài chính trong nước, các tổ chức khác trong nước và từ nguồn Chính phủ vay ngoài nước về cho Thành phố vay lại với tổng mức dư nợ vay không vượt quá 90%số thu ngân sách thành phố được hưởng theo phân cấp. Tổng mức vay và bội chi ngân sách của Thành phố hằng năm do Quốc hội quyết định theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước.
8. Hằng năm, Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định bổ sung có mục tiêu từ ngân sách trung ương cho ngân sách Thành phố tương ứng 70% số tăng thu ngân sách trung ương từ các khoản thu phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách Thành phố so với dự toán Thủ tướng Chính phủ giao (phần còn lại sau khi thực hiện thưởng vượt thu theo quy định tại khoản 4 Điều 59 của Luật Ngân sách nhà nước) và số tăng thu từ các khoản thu ngân sách trung ương hưởng 100% quy định tại các điểm b, c, d, g, h, i và q khoản 1 Điều 35 của Luật Ngân sách nhà nước so với dự toán Thủ tướng Chính phủ giao.
9. Ngân sách Thành phố được hưởng 50% khoản thu tiền sử dụng đất khi bán tài sản công gắn với tài sản trên đất theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công (sau khi đã trừ kinh phí di dời, xây dựng cơ sở vật chất tại địa điểm mới) do các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc trung ương quản lý trên địa bàn Thành phố (trừ các cơ quan, đơn vị thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh) để đầu tư hạ tầng kinh tế – xã hội thuộc nhiệm vụ đầu tư công của Thành phố.
10. Ngân sách Thành phố được hưởng số thu từ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước do Ủy ban nhân dân Thành phố quản lý và phần thu được từ thoái vốn nhà nước tại các tổ chức kinh tế do Ủy ban nhân dân Thành phố làm đại diện chủ sở hữu. Thành phố sử dụng nguồn thu này và ngân sách thành phố để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội, kể cả đầu tư cho các dự án chống ngập của Thành phố; ngân sách trung ương không phân bổ cho Thành phố 10.000 tỷ đồng để thực hiện các dự án này như dự kiến trong Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 – 2020. Ngân sách Thành phố thực hiện vay lại toàn bộ phần vốn tăng thêm so với tổng mức đầu tư (nếu có) của các dự án đầu tư từ nguồn vốn ngoài nước đã được cấp có thẩm quyền quyết định.
11. Đối với các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng quan trọng trong kế hoạch đầu tư công trung hạn đã được phê duyệt thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách trung ương trên địa bàn Thành phố, cho phép Thành phố sử dụng ngân sách của mình, các nguồn lực tài chính hợp pháp khác của Thành phố, vay trong phạm vi quy định tại khoản 7 nêu trên hoặc huy động theo phương thức đối tác công tư (PPP) để sớm hoàn thành dự án. Ngân sách trung ương có trách nhiệm hoàn trả cho Thành phố phần dự toán chi thuộc trách nhiệm của ngân sách trung ương đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, không bao gồm phần lãi vay trong kế hoạch đầu tư công trung hạn hiện hành hoặc kế hoạch đầu tư công trung hạn tiếp theo.
4. Cơ chế ủy quyền:
1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố được ủy quyền cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận, huyện thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố.
2. Ủy ban nhân dân Thành phố quy định các nhiệm vụ, quyền hạn mà Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện thuộc Thành phố được ủy quyền cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, không được ủy quyền các nhiệm vụ, quyền hạn đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố đã ủy quyền theo quy định tại khoản 1.
3. Ủy ban nhân dân Thành phố được quyền điều chỉnh tên gọi, chức năng, nhiệm vụ các phòng thuộc các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố để phù hợp với đặc điểm của Thành phố.
5. Thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức thuộc Thành phố quản lý:
1. Hội đồng nhân dân Thành phố được quyền quyết định bố trí ngân sách Thành phố chi thu nhập bình quân tăng thêm cho cán bộ, công chức, viên chức khu vực quản lý nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội và đơn vị sự nghiệp công lập do Thành phố quản lý theo hiệu quả công việc ngoài việc thực hiện chi trả thu nhập tăng thêm theo quy định của pháp luật hiện hành về cơ chế tự chủ tài chính đối với cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập, với mức tối đa không quá 1,8 lần mức lương ngạch bậc, chức vụ.
2. Mức thu nhập cho các chuyên gia, nhà khoa học, tài năng đặc biệt của Thành phố do Hội đồng nhân dân Thành phố quy định.
Nghị quyết của Quốc hội cũng quy định rất rõ: Việc thí điểm thực hiện chính sách thu ngân sách nhà nước trên địa bàn Thành phố liên quan đến thuế, phí và lệ phí phải tuân thủ các nguyên tắc:
a) Bảo đảm có lộ trình phù hợp với trình độ và yêu cầu phát triển của Thành phố; tạo môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi, nhất là đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngành, nghề ưu đãi đầu tư;
b) Bảo đảm sự thống nhất của thị trường, không cản trở lưu thông hàng hóa, dịch vụ; thực hiện điều tiết hợp lý đối với một số hàng hóa, dịch vụ và nguồn thu nhập hợp pháp của tổ chức, cá nhân trên địa bàn Thành phố;
c) Công khai, minh bạch, cải cách hành chính nhà nước, bao gồm cả cải cách hành chính quản lý thuế.
Nghị quyết 54 của Quốc hội cũng đòi hỏi: Việc thực hiện các quy định về thu nhập tăng thêm phải gắn với việc sắp xếp bộ máy tổ chức, tinh giản biên chế, cải cách tiền lương theo chủ trương của Đảng, Nhà nước.
Ngoài 18 nội dung thuộc 5 lĩnh vực liên quan đến quản lý nhà nước của Thành phố – các nội dung cốt lõi của cơ chế, chính sách đặc thù để Thành phố Hồ Chí Minh phát triển nhanh hơn, bền vững hơn vì cả nước, Nghị quyết 54 của Quốc hội còn xác định trách nhiệm của Chính phủ trong thời gian tới:
a) Tổ chức thực hiện Nghị quyết này; chỉ đạo các cơ quan liên quan phối hợp với Thành phố cải cách thủ tục, rút ngắn thời gian xử lý các vấn đề chưa phân cấp, phân quyền cho Thành phố;
b) Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý ngân sách; phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi; xây dựng nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ ngân sách cho phù hợp với yêu cầu của việc phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững; thực hiện chính sách động viên hợp lý; bảo đảm vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương; cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn bền vững; xác định tỷ lệ điều tiết các khoản thu phân chia ngân sách hợp lý, tạo điều kiện cho Thành phố có nguồn lực để phát triển nhanh, bền vững theo định hướng của Đảng, Nhà nước;
c) Chỉ đạo Thành phố sơ kết, tổng kết để báo cáo kết quả thực hiện với Quốc hội;
d) Xây dựng dự thảo, trình Quốc hội ban hành Luật Thuế tài sản để áp dụng thống nhất trên phạm vi toàn quốc.
Các nội dung b) và d) không chỉ có ý nghĩa với riêng Thành phố mà còn có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của cả nước trong thời gian tới.
III. Trách nhiệm lớn của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân TPHCM cùng cả nước, vì cả nước
Nghị quyết 54 của Quốc hội là sự thể chế hóa cao nhất, rất kịp thời nhiều nội dung quan trọng của Kết luận 21 của Bộ Chính trị ngày 24-10-2017 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 16 ngày 10-8-2012 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển TP Hồ Chí Minh đến năm 2020.
Thực hiện trách nhiệm trước Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội và Chính phủ ngay trong kỳ họp đầu tháng 12-2017, Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố sẽ có Nghị quyết về triển khai quyết liệt, đồng bộ Nghị quyết 54 của Quốc hội về cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó xác định trách nhiệm lãnh đạo, kiểm tra giám sát việc triển khai thực hiện Nghị quyết trong hệ thống Đảng, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố; trách nhiệm và kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết 54 của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân Thành phố hàng năm từ 2018 đến 2020. Hội nghị Ban chấp hành Đảng bộ Thành phố sẽ thông qua kế hoạch triển khai thực hiện Kết luận 21 của Bộ Chính trị của Ban Thường vụ Thành ủy.
Trong 18 nội dung của cơ chế, chính sách đặc thù của Thành phố có 12 nội dung cần có quy định của Hội đồng nhân dân Thành phố. Ngay kỳ họp của Hội đồng nhân dân Thành phố từ 4 đến 7-12-2017, Hội đồng nhân dân Thành phố sẽ có Nghị quyết về triển khai Nghị quyết của Thành ủy về thực hiện Nghị quyết 54 của Quốc hội. Trên cơ sở Nghị quyết của Thành ủy và Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân Thành phố sẽ có chương trình thực hiện Nghị quyết 54 của Quốc hội 03 năm 2018-2020 và kế hoạch triển khai hàng năm.
Trong quá trình triển khai Nghị quyết 54 của Quốc hội và Kết luận 21 của Bộ Chính trị, Thành ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân Thành phố sẽ định kỳ báo cáo và kịp thời xin ý kiến Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ các nội dung liên quan và các vấn đề mới phát sinh để có chỉ đạo kịp thời.
Thời gian thực hiện Nghị quyết 54 của Quốc hội chỉ 05 năm, trong đó cần triển khai tập trung tất cả các giải pháp trong giai đoạn 2018-2020, sơ kết vào cuối 2020 và báo cáo Chính phủ, Quốc hội. Vì vậy, tinh thần của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố là: triển khai quyết liệt, đồng bộ và sáng tạo Kết luận số 21-KL/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết 54 của Quốc hội với tinh thần cùng cả nước, vì cả nước, xứng đáng với niềm tin mà Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ và Nhân dân cả nước đã dành cho Thành phố Hồ Chí Minh trong suốt thời gian qua.
Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Thành phố chân thành cám ơn Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, các Ban, Bộ, ngành Trung ương và 62 tỉnh, thành phố đã luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, hỗ trợ và chia sẻ với Thành phố để Thành phố có điều kiện phát triển nhanh hơn, bền vững hơn vì cả nước, xứng đáng là Thành phố mang tên Bác Hồ kính yêu.
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy TPHCM