Bản đồ dự báo thời tiết ngày 6-5-2017

 

Bản đồ Biển Đông Việt Nam

 

 

Những vấn đề đặt ra trong quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo 

 

Biển Đông nằm trên tuyến đường hàng hải nhộn nhịp bậc nhất thế giới với mật độ tàu thuyền trọng tải lớn qua lại trung bình khoảng trên 41.000 chiếc/năm nên có vị trí chiến lược quan trọng cả về an ninh – quốc phòng lẫn thương mại quốc tế đối với các quốc gia trong khu vực; và Biển Đông đã trở thành một khu vực có nhiều tranh chấp phức tạp nhất thế giới. 

 

Với Việt Nam, Biển Đông có vai trò quan trọng đặc biệt cả về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng do nước ta có đường bờ biển dài trên 3.260 km với hơn 3.000 hòn đảo, hầu hết các tỉnh, thành là địa phương ven biển và nhiều ngành kinh tế chiếm tỷ trọng lớn trong GDP cả nước (dầu khí, du lịch, xuất khẩu…) đều liên quan mật thiết đến Biển Đông. Trong những năm qua, Việt Nam đã triển khai nhiều hoạt động nhằm quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo và bảo vệ các lợi ích quốc gia trên biển. Tuy nhiên, tình hình quốc tế và khu vực diễn biến phức tạp hơn, đòi hỏi có các giải pháp tổng thể về quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế, kinh tế, xã hội. Hiện nay, tình hình quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo của nước ta hàm chứa nhiều nhân tố bất ổn: tranh chấp ở Biển Đông ngày càng phức tạp; tình hình khu vực và thế giới diễn biến khó lường, tác động sâu sắc đến cục diện thế giới và tình hình khu vực Biển Đông; nhận thức, hành động trong nhân dân và một số cán bộ về chủ quyền biển, đảo chưa cao; các thế lực phản động, cơ hội chính trị lợi dụng vấn đề biển, đảo để chống phá; kinh nghiệm, các trang thiết bị quản lý biển, đảo còn hạn chế.

 

Biển, đảo là một bộ phận cấu thành lãnh thổ, không gian sinh tồn và là điều kiện vật chất để xây dựng, phát triển đất nước nên có tầm quan trọng đặc biệt. Do đó, quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam không chỉ có ý nghĩa bảo vệ không gian lãnh thổ, lợi ích mọi mặt mà còn là bảo vệ chế độ, Nhà nước. 

 

Công tác quản lý, thực thi và bảo vệ chủ quyền biển, đảo 

 

Quản lý, thực thi và bảo vệ chủ quyền biển, đảo vừa mang yếu tố đối nội, vừa mang yếu tố đối ngoại; là quá trình thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của nước ta trên các đảo, vùng biển được xác lập phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982; là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng pháp luật của Nhà nước với các hoạt động kinh tế – xã hội, các hoạt động trên biển, đảo. Công tác quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo bao gồm những lĩnh vực sau:

 

Xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật về quản lý, thực thi và bảo vệ chủ quyền biển, đảo.Đảng ta đã có nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn và nhất quán về biển, đảo. Đặc biệt là Nghị quyết số 09-NQ/TW (khóa X), ngày 9 tháng 2 năm 2007 “Về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”… Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo, như Tuyên bố của Chính phủ về các vùng biển và đường cơ sở năm 1977 và 1982; Luật Dầu khí năm 1993, Bộ Luật Hàng hải năm 1991; Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 1991; Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng năm 1997; Pháp lệnh Lực lượng cảnh sát biển Việt Nam năm 1998; Luật Biên giới quốc gia năm 2003; Luật Biển Việt Nam năm 2012; Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015. Nhà nước ta đã ký hàng loạt điều ước quốc tế liên quan đến biển và đại dương, trong đó có Công ước của Liên Hiệp quốc về Luật Biển năm 1982. Mới đây, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22 tháng 10 năm 20218 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

 

Tăng cường và củng cố quốc phòng, an ninh bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo.Trong bối cảnh tranh chấp ở Biển Đông ngày càng phức tạp, Việt Nam đã bảo vệ vững chắc chủ quyền như: bảo vệ tốt danh nghĩa chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa; quản lý và bảo vệ vững chắc 21 đảo, bãi với 33 điểm đóng quân ở quần đảo Trường Sa; bảo vệ tốt vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý; giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán, quyền và lợi ích trên các vùng biển Việt Nam thông qua duy trì hệ thống 15 nhà giàn DK trên vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam.

 

Kiên trì, kiên quyết đấu tranh đối với các vi phạm chủ quyền biển, đảo của Việt Nam.Nhà nước Việt Nam trước sau như một khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, thể hiện nhất quán trong các văn bản pháp luật về biển đã ban hành; đấu tranh kiên quyết, phù hợp trên thực địa, trên mặt trận ngoại giao, dư luận trước mọi vi phạm đối với chủ quyền biển, đảo Việt Nam; kịp thời đấu tranh kiên quyết trước các vụ, việc phức tạp ở Biển Đông; chủ động, ngăn ngừa các vi phạm chủ quyền, quyền và lợi ích hợp pháp của ta trên biển. Đặc biệt là đấu tranh trên bình diện song phương, khu vực và các diễn đàn đa phương toàn cầu; trên cả kênh chính thức và học giả dưới nhiều hình thức và đã tranh thủ được sự ủng hộ của dư luận quốc tế lên án các hành động vi phạm chủ quyền Việt Nam. Các lực lượng thực thi pháp luật trên biển tích cực, chủ động trong tuần tra, kiểm tra, kiểm soát, phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm trên vùng biển Việt Nam, tích cực góp phần duy trì an ninh trật tự, an toàn trên biển, thể hiện rõ vai trò quản lý và bảo vệ vùng biển của Việt Nam.

 

Phát triển kinh tế biển, đảo, gắn phát triển kinh tế với an ninh, quốc phòng.Thời gian qua, kinh tế biển, đảo đã có bước phát triển mạnh mẽ. Cụ thể là đã phát triển hệ thống 15 khu kinh tế biển với trên 100 dự án đầu tư nước ngoài có vốn đăng ký gần 39 tỷ USD và hàng nghìn tỷ đồng, tạo việc làm cho hàng vạn lao động và là động lực để phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, vùng và cả nước. Kinh tế thủy sản tăng trưởng liên tục 5% – 7%/năm, xuất khẩu thủy sản năm 2017 đạt 8,3 tỷ USD, tăng 18% so với năm 2016. Trong nhiều năm qua, khai thác dầu khí ở các vùng biển Việt Nam đóng góp 18% – 26%/năm cho GDP, góp phần tăng trưởng GDP toàn quốc. Đặc biệt, du lịch biển, đảo thu hút trên 70% lượng khách quốc tế và trên 50% tổng lượng khách nội địa. 

 

Tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vai trò của biển, đảo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được chú trọng, thể hiện dưới nhiều hình thức phù hợp với thực tiễn, trình độ, nhận thức của đối tượng tuyên truyền; cung cấp thông tin khách quan, có định hướng về những vấn đề đang diễn ra, nhất là những vấn đề liên quan đến tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông giúp mọi tầng lớp nhân dân hiểu đúng bản chất vấn đề, giải đáp kịp thời các thắc mắc, băn khoăn về những diễn biến tình hình. Qua đó tạo niềm tin, nâng cao đồng thuận chung trong xã hội đối với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong vấn đề chủ quyền biển, đảo, bẻ gãy những âm mưu, ý đồ muốn gây chia rẽ nội bộ, chống phá Đảng, Nhà nước ta. Công tác thông tin, tuyên truyền đã làm cho mỗi công dân thấy rõ trách nhiệm, nghĩa vụ đối với chủ quyền biển, đảo quốc gia, đồng lòng quyết tâm làm chủ, bảo vệ biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

 

Củng cố, tăng cường, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi, hỗ trợ cho công cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo.Trong việc tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc, Việt Nam đã đạt nhiều thành tích đáng kể: Giữ vững môi trường hòa bình, tạo thuận lợi cho phát triển, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; Nhiều tranh chấp liên quan chủ quyền biển, đảo được giải quyết, góp phần thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước liên quan; Tích cực định hình tiếng nói chung về hòa bình, an ninh, ổn định ở khu vực Biển Đông trong các cơ chế khu vực, đa phương và toàn cầu; Tích cực tham gia xây dựng các luật lệ quốc tế liên quan đến biển và đại dương ở quy mô khu vực và toàn cầu; Duy trì và thúc đẩy nguyên tắc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế dựa trên luật pháp quốc tế; Thúc đẩy quan hệ song phương và đa phương, chủ động tạo dựng các khuôn khổ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và đan xen lợi ích, góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam.

 

Hoàn thiện thiết chế quản lý biển, đảo thông qua hình thành một số lực lượng thực thi pháp luật trên biển đồng thời nâng cao vai trò và trách nhiệm của lực lượng biên phòng, hải quân. Về tổ chức, từng bước hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về biển, đảo cùng với phân công trách nhiệm cụ thể về các lĩnh vực quản lý nhà nước về biển, đảo giữa các bộ: Ngoại giao, Quốc phòng, Công an, Giao thông vận tải, Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn… Kết hợp giữa quản lý nhà nước theo ngành và lãnh thổ về biển, đảo.

 

Phát triển nguồn nhân lực có chất lượng, đáp ứng yêu cầu quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo.Công tác đào tạo, hình thành nguồn nhân lực có chất lượng, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới được chú trọng và quan tâm. Bên cạnh việc đào tạo chính khóa có nhiều lớp bồi dưỡng kiến thức về quản lý nhà nước tổng hợp về biển, đảo, kiến thức pháp luật đã được tổ chức ở các bộ, ngành, địa phương. Việc hợp tác quốc tế nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực biển, đảo cũng được mở rộng với nhiều đối tác.

 

Các bài học kinh nghiệm 

 

Qua đánh giá các thành tựu, những vấn đề còn tồn tại trong quản lý, thực thi và bảo vệ chủ quyền biển, đảo, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm.

 

Thứ nhất là, bảo vệ chủ quyền biển, đảo cần phải phát huy sức mạnh của toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng, chỉ đạo của Nhà nước, trong đó có phân công nhiệm vụ và trách nhiệm cụ thể của từng ngành, từng cấp.

 

Thứ hai, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là thiêng liêng, không thể để bị xâm phạm, song cũng cần linh hoạt trong biện pháp triển khai theo từng thời điểm, từng hoàn cảnh với mục tiêu cao nhất là bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc.

 

Thứ ba là, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, nêu cao chính nghĩa nhằm tranh thủ tối đa sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế; tạo sự đan xen về lợi ích mọi mặt để hình thành môi trường thuận lợi cho công cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

 

Thứ tư là, tạo sự đồng thuận, nhất trí cao giữa các cơ quan nhà nước, giữa các bộ và nhân dân về chủ trương, đường lối quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo để phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong công cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

 

Thứ năm là, tích cực, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi vi phạm chủ quyền của Việt Nam thông qua hợp tác chính trị, quốc phòng – an ninh; răn đe về mặt quân sự; đề cao ý chí bất khuất, kiên cường, anh dũng của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước.

 

 (Nguồn Trung tâm Thông tin Công tác Tư tưởng Thành phố)