Bước tiến trong tư duy, nhận thức về tự do tín ngưỡng, tôn giáo

 

Trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng, Nhà nước ta luôn có chính sách về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp để tập hợp, phát huy vai trò của đồng bào có đạo trong xây dựng và phát triển đất nước. Điểm nổi bật là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; nhận thức về vai trò của tôn giáo cũng có sự phát triển, từ nhìn nhận giá trị đạo đức, văn hóa đến việc giữ gìn, phát huy giá trị đạo đức, văn hóa của các tôn giáo. Đặc biệt coi tôn giáo là nguồn lực trong quá trình phát triển đất nước- bước đột phá tiếp theo trên con đường đổi mới nhận thức về vai trò của tôn giáo trong hội nhập quốc tế. Đến tháng 9 năm 2019, các tôn giáo ở nước ta có khoảng 500 cơ sở y tế, phòng khám chữa bệnh từ thiện; 300 trường mầm non, 2.000 lớp học tình thương; 12 cơ sở dạy nghề, gồm 02 trường trung cấp nghề và 10 trung tâm dạy nghề, tuyển sinh, đào tạo hệ trung cấp và dạy nghề ngắn hạn; gần 800 cơ sở bảo trợ xã hội đang nuôi dưỡng trên 12.000 trẻ em mồ côi, trẻ tàn tật, người già cô đơn, bệnh nhân tâm thần, HIV/AIDS, tiếp nhận nhiều nhóm đối tượng có hoàn cảnh khó khăn.

 

Quan điểm trên được thể hiện rõ từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới toàn diện đất nước (năm 1986) đến nay, thông qua việc Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ ban hành các nghị quyết, chỉ thị, pháp lệnh, luật, nghị định đồng bộ để việc thực hành tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân ngày càng thuận lợi. Nghị quyết 24/NQ-TW, ngày 16tháng 10năm 1990 của Bộ Chính trị (khóa VI) về “Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới”; Nghị định 69/HĐBT, ngày 21 tháng 3 năm 1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) quy định về các hoạt động tôn giáo, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động tôn giáo và quản lý các hoạt động tôn giáo trong giai đoạn đầu những năm đổi mới;…Ngày 18 tháng 11 năm 2016, Quốc hội đã thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo thay thế Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo. Theo đó, ngày 30 tháng 12 năm 2017, Chính phủ ban hành Nghị định 162/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, tiếp tục tạo hành lang pháp lý quan trọng cho các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo.

 

Đặc biệt, việc Nhà nước ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đã khẳng định: Việt Nam tích cực hội nhập quốc tế, hoàn thiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, cụ thể hóa chủ trương nhất quán về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Luật này quy định chi tiết tại Điều 6: Mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo; học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tôn giáo; quyền vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng về tôn giáo. Đối với người chưa thành niên khi vào tu tại cơ sở tôn giáo hoặc học tại cơ sở đào tạo tôn giáo phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Đối với người bị tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật về tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo. Quy định này đã thể hiện rõ tính nhân văn trong chính sách của Nhà nước Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho những người bị hạn chế quyền công dân. Ngoài ra, luật này còn quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài cư trú hợp pháp, cho thấy ở Việt Nam,quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không bị giới hạn bởi quốc tịch, giới tính, độ tuổi.

 

Như vậy, Việt Nam luôn là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong việc đảm bảo quyền con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; là minh chứng để chống mọi luận điệu của các thế lực xấu xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

 

 

 

Bước tiến tự do tín ngưỡng, tôn giáo được thể hiện trong thực tiễn

 

Bước tiến về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta còn được thể hiện trong thực tiễn của đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, trên các nội dung cơ bản sau:

 

Một là, sự hình thành, phát triển các tổ chức tôn giáo là minh chứng Việt Nam đảm bảo tốt quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền bình đẳng giữa các tôn giáo. Trước khi Pháp lệnh Tín ngưỡng tôn giáo được ban hành (năm 2003), cả nước có 15 tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận thuộc 06 tôn giáo: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài, Phật giáo Hòa Hảo và Hồi giáo. Đến tháng 9năm 2019, đã có 43 tổ chức, thuộc 16 tôn giáo được công nhận và cấp đăng ký hoạt động. Trong năm 2018 và 2019,có thêm 03 tổ chức tôn giáo được cấp phép hoạt động, là Hội thánh Phúc âm Ngũ tuần Việt Nam, Hội thánh Phúc âm Toàn vẹn Việt Nam và Hội thánh Liên hiệp Truyền giáo Việt Nam.

 

Số lượng tín đồ cũng không ngừng gia tăng. Trước năm 2003, cả nước có khoảng 17,4 triệu tín đồ/hơn 80 triệu dân, chiếm 21,8% dân số; đến tháng 9năm 2019, có 26 triệu tín đồ, chiếm 27% dân số cả nước, cùng 55 ngàn chức sắc, 145 ngàn chức việc, 29 ngàn cơ sở thờ tự. Hiện nay, cả nước có khoảng 95% dân số có niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo và hằng năm có gần 08 ngàn lễ hội.

 

Hai là, đa dạng các hoạt động tôn giáo là minh chứng cho quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đã và đang được bảo đảm. Quy mô và hoạt động tôn giáo ngày càng tăng và sôi động, đời sống tâm linh của người dân luôn được chính quyền quan tâm; các ngày lễ trọng đại, lễ hội truyền thống của tôn giáo được tổ chức trang nghiêm,thu hút cả quần chúng nhân dân tham gia, như: Lễ Phật đản của Phật giáo, Lễ Giáng sinh, Lễ Phục sinh của Công giáo và Tin lành, Đại lễ Vía Đức Chí Tôn, Lễ Thượng ngươn của đạo Cao Đài… Nhà nước tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo in ấn, phát hành kinh sách bằng nhiều ngôn ngữ và đồ dùng việc đạo. Phần lớn các tổ chức tôn giáo đều có website riêng.

 

Cùng với đó, các tổ chức tôn giáo duy trì tốt các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, phong chức, phong phẩm và bổ nhiệm chức sắc, chức việc nhà tu hành. Từ năm 2015 đến năm 2017, đã thành lập mới 05 cơ sở đào tạo tôn giáo: Học viện Công giáo, Đại Chủng viện Đức Mẹ Vô nhiễm Bùi Chu, Học viện Truyền giáo Cao Đài, Trung cấp Phật giáo Hòa Hảo, Trường Thánh kinh Thần học Cơ đốc. Nhiều cơ sở tôn giáo được cấp phép xây dựng, sửa chữa, nâng cấp, cải tạo, đáp ứng nhu cầu chính đáng về cơ sở thờ tự của tín đồ và tổ chức tôn giáo, góp phần củng cố mối quan hệ gắn bó giữa Nhà nước và giáo hội.

 

Ba là, hoạt động đối ngoại tôn giáo giúp các tổ chức quốc tế hiểu rõ rằng Việt Nam luôn đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đây là một trong những hoạt động quan trọng và thường xuyên của các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam, diễn ra ở nhiều lĩnh vực, từ đào tạo, hội nghị, hội thảo đến chia sẻ kinh nghiệm, truyền giáo… Trong bối cảnh ngày càng hội nhập sâu vào đời sống thế giới, hoạt động quốc tế của các tôn giáo Việt Nam cũng đã diễn ra đa dạng, phong phú, số lượng đoàn trong nước và nước ngoài đi hoặc đến nghiên cứu tìm hiểu về tình hình tôn giáo ngày càng tăng. Từ năm 2012 đến tháng 9 năm 2019, có khoảng 370 đoàn các tôn giáo với hơn 1.000 lượt cá nhân, tổ chức nước ngoài vào Việt Nam hoạt động tôn giáo; hơn 1.200 lượt chức sắc tín đồ, nhà tu hành các tôn giáo Việt Nam xuất cảnh tham dự hội nghị, hội thảo, diễn đàn, đào tạo nâng cao. Hiện có khoảng 250 tăng ni và 250 linh mục đang du học tại một sốnước châu Á, Hoa Kỳ, Pháp, Italia… Các tôn giáo ở Việt Nam cũng đã phát huy vai trò, vị thế của mình trên thế giới qua việc đăng cai tổ chức các sự kiện tôn giáo quốc tế: Giáo hội Công giáo tổ chức Tổng hội dòng Đa Minh thế giới, Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức Đại lễ Phật đản Vesak… góp phần giới thiệu hình ảnh về đất nước,con người Việt Nam.

 

Hoạt động quốc tế của các tôn giáo Việt Nam diễn ra rất sôi động, thường xuyên. Đây là kết quả của chính sách cởi mở của Đảng và Nhà nước ta tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tôn giáo hoạt động. Tại Việt Nam, nhiều hội nghị, lễ hội tôn giáo lớn được tổ chức trọng thể, thành công được dư luận đánh giá cao, như: Việt Nam đã phối hợp Phái đoàn Liên minh châu Âu tại Hà Nội, Viện Liên kết toàn cầu IGE (Hoa Kỳ) tổ chức Hội thảo quốc tế chia sẻ kinh nghiệm về chính sách, pháp luật đối với tôn giáo, đóng góp của các tôn giáo đối với xã hội. Đồng thời, tham gia hiệu quả các cuộc Đối thoại nhân quyền (trong đó có vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo) với Úc, Hoa Kỳ, Thụy Sĩ, Na Uy, EU; đón làm việc với Báo cáo viên đặc biệt về tự do tôn giáo của Liên hợp quốc, Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Mỹ, Đại sứ lưu động về tự do tôn giáo Mỹ; xây dựng và bảo vệ trước Liên hợp quốc “Báo cáo quốc gia theo cơ chế kiểm điểm định kỳ chu kỳ III” (UPR) và “Báo cáo thực thi Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị” (ICCPR); trả lời khuyến nghị của các cơ quan Liên hợp quốc về nhân quyền, trong đó có vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo.

 

Đặc biệt, quan hệ Việt Nam – Vatican tiếp tục được duy trì và có những bước tiến mới: nâng cấp quan hệ từ mức Đặc phái viên không thường trú lên mức Đặc phái viên thường trú; tiếp tục trao đổi đoàn cấp cao, chuẩn bị tốt các vòng đàm phán và những hoạt động khác thúc đẩy quan hệ hai bên.

 

Đảng, Nhà nước luôn chăm lo đời sống tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ cho đồng bào trong nước mà còn cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Ban Tôn giáo Chính phủ đã thành lập nhiều đoàn hoặc kết hợp các chuyến công tác nước ngoài để gặp gỡ cộng đồng người Việt tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của bà con, trao đổi với chính quyền sở tại đề nghị giúp đỡ cộng đồng người Việt được tự do sinh hoạt tôn giáo, tạo sự phấn khởi, thêm gắn bó với quê hương, đất nước. Tháng 11năm 2018, Chính phủ Lào cho phép thành lập Ban điều phối của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại Lào. Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã có nhiều hoạt động Phật giáo tại 22 quốc gia và vùng lãnh thổ.

 

Hoạt động đối ngoại tôn giáo ở Việt Nam không chỉ thực hiện theo quy định của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, mà còn được tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức tôn giáo nâng cao vai trò, vị thế trong hoạt động quốc tế, cũng như tạo điều kiện để các tổ chức nước ngoài có dịp tiếp cận với thực tế đời sống tôn giáo ở các vùng miền của Việt Nam, góp phần vào công tác bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của cá nhân, tổ chức tôn giáo.

 

Tổng quan một số vấn đề trên cho thấy, chính sách nhất quán tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta và người dân Việt Nam không hề bị ngăn cản hay gây khó trong việc thực hành tín ngưỡng, tôn giáo. Điều đó bác bỏ luận điệu xuyên tạc, bóp méo tình hình thực tế khách quan về tôn giáo của các tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với Việt Nam để chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta trên lĩnh vực tôn giáo dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước ta.  

 

    Nguồn Phòng Tuyên truyền – Nghiên cứu Dư luận xã hội Thành phố