Bối cảnh

Đại hội XII của Đảng đã đề ra mục tiêu tổng quát cho 5 năm năm tới là đẩy mạnh toàn diện đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế nhanh và bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Những thành tựu sau 30 năm đổi mới là những tiền đề thuận lợi để thực hiện nhiệm vụ nói trên.

Nhưng đất nước cũng đứng trước không ít khó khăn thách thức. Về ngắn hạn, chúng ta vừa khắc phục những hệ lụy của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ thế giới cũng như những yếu kém vốn có của nền kinh tế đồng thời ứng phó với tình trạng biến đổi khí hậu, thảm họa môi trường và nhiều thách thức mới nảy sinh của nền kinh tế thế giới. Về dài hạn, thế giới đang trải qua quá trình tái cấu trúc toàn diện từ cơ cấu sản xuất đến cơ cấu tiền tệ. Mặt khác, những tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ đưa loài người lên tầm cao phát triển mới. 

Chính vì vậy, nước ta vừa phải giải quyết những vấn đề trước mắt đồng thời vừa phải đối mặt với những biến chuyển hết sức sâu rộng trong nền kinh tế thế giới. Nếu không vượt qua những thách thức mới và phức tạp này thì nguy cơ tụt hậu sẽ càng lớn hơn.

Việt Nam – thành viên tích cực của cộng đồng quốc tế trên cả ba cấp độ

Công tác đối ngoại của Việt Nam thời gian qua luôn kiên trì độc lập, đa dạng hóa, đa phương hóa, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; chủ động đề xuất các giải pháp tích cực triển khai hiệu quả các nhiệm vụ được giao.

Thứ nhất, mở rộng quan hệ hợp tác, đưa các quan hệ đối tác đi vào chiều sâu. Đến nay, nước ta đã tạo dựng được khuôn khổ hợp tác với hầu hết đối tác quan trọng nhất trên thế giới. Việc đưa các quan hệ đi vào chiều sâu đều được tiến hành có kế hoạch, có lộ trình trước mắt và tầm nhìn lâu dài, trong đó chú trọng tăng cường hợp tác kinh tế, đầu tư, quốc phòng, an ninh và giao lưu nhân dân.

Việt Nam và các đối tác đã phối hợp củng cố, thiết lập mới các cơ chế hợp tác, xây dựng chương trình hành động bao gồm các hoạt động ưu tiên hàng năm để cùng theo dõi đôn đốc, triển khai. Cụ thể, Việt Nam có 52 cơ chế hợp tác với Trung Quốc, 12 cơ chế đối thoại với Hoa Kỳ, thiết lập thêm cơ chế đối thoại chiến lược cấp thứ trưởng ngoại giao và quốc phòng với Nga…

Thứ hai, Bộ Ngoại giao cùng các bộ, ngành địa phương phối hợp chặt chẽ đưa chủ trương hội nhập quốc tế đi vào cuộc sống, triển khai hiệu quả Nghị quyết 52 của Bộ Chính trị, Chương trình hành động của Chính phủ và chiến lược hội nhập quốc tế đến năm 2020 và tầm nhìn 2030 trên hầu hết các lĩnh vực.

Về kinh tế, đã vận động được 64 nước công nhận quy chế kinh tế thị trường, ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, trở thành một mắt xích quan trọng trong liên kết kinh tế khu vực và liên khu vực.

Thứ ba, quản lý tốt và xây dựng các đường biên giới hòa bình, hợp tác; giữ vững chủ quyền lãnh thổ, biển đảo; gìn giữ và tạo dựng môi trường hòa bình, tạo thuận lợi cho phát triển đất nước.

Việt Nam và Trung Quốc đã thiết lập cơ chế thực thi nghiêm túc ba văn kiện pháp lý biên giới, thành lập Ủy ban liên hợp biên giới đất liền, ký Hiệp định về hợp tác du lịch thác Bản Giốc và tàu thuyền đi lại khu vực cửa sông Bắc Luân. Hoàn thành đúng thời hạn công tác tăng dày, tôn tạo hệ thống mốc giới và hoàn tất hồ sơ pháp lý biên giới với Lào. Hoàn thành hơn 80% khối lượng công việc phân giới cắm mốc với Campuchia.

Trước những diễn biến phức tạp trên Biển Đông, Bộ Ngoại giao và các cơ quan liên quan đã theo dõi sát tình hình, phối hợp nhịp nhàng, kịp thời tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương, Chính phủ kiên trì sử dụng các biện pháp chính trị, ngoại giao đấu tranh linh hoạt nhưng kiên quyết, kết hợp song phương và đa phương, thúc đẩy giải quyết hòa bình các tranh chấp phù hợp với luật pháp quốc tế, nhờ đó, chúng ta tranh thủ được sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, duy trì môi trường hòa bình, ổn định phục vụ phát triển đất nước.

Thứ tư,đối ngoại đa phương đã có bước phát triển mới, chủ động, tích cực tham gia các công việc chung của quốc tế theo phương châm chuyển từ tham gia tích cực sang tham gia chủ  động, đóng góp xây dựng, định hình luật chơi chung, bảo đảm được các lợi ích thiết thân của đất nước tại các diễn đàn quan trọng như ASEAN, Liên Hợp Quốc, APEC, ASEM…

Việt Nam đã thực sự là thành viên tích cực của cộng đồng quốc tế trên cả ba cấp độ là song phương, khu vực và toàn cầu. Việt Nam đã được bầu với số phiếu rất cao vào Hội đồng Nhân quyền, Hội đồng Kinh tế xã hội của Liên Hợp Quốc, Ủy ban di sản thế giới của UNESCO, lần thứ 2 đăng cai APEC năm 2017, cho thấy mức độ tin cậy và sự kỳ vọng của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam trong việc gánh vác trách nhiệm chung.

Nước ta đã đề xuất triển khai 44 sáng kiến ở các diễn đàn đa phương, tập trung vào các lĩnh vực hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu…

Thứ năm,cùng với ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa tập trung triển khai Đề án tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh ở nước ngoài, tổ chức nhiều sự kiện Tuần, Ngày Việt Nam ở nước ngoài, góp phần tăng cường quảng bá hình ảnh đất nước.

Công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục được chú trọng, triển khai tích cực theo tinh thần Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị; tham mưu xây dựng chủ trương chính sách, hỗ trợ kiều bào ổn định địa vị pháp lý, góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, khơi thêm nguồn lực cho đất nước.

Trong bối cảnh môi trường pháp lý phức tạp, đã kịp thời bảo hộ công dân ở các khu vực có thảm họa thiên tai, chiến sự; sơ tán hàng chục nghìn lao động ra khỏi khu vực chiến sự ở Libya, hàng trăm gia đình ở Ukraine, bảo vệ hàng nghìn ngư dân và tàu cá.

Nhiệm vụ cho ngành ngoại giao trong giai đoạn mới

Phát biểu chỉ đạo Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ, toàn ngành ngoại giao đang đứng trước nhiều nhiệm vụ to lớn, quan trọng trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới. Vì vậy, ngành ngoại giao không thể đứng ngoài nhiệm vụ góp phần giải quyết những vấn đề có tầm quan trọng chiến lược đó. 

Theo Tổng Bí thư, ngoại giao cần đặt ưu tiên cao và trách nhiệm cụ thể cho các cơ quan đại diện bên ngoài, các đơn vị chức năng thuộc Bộ; tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, công tác thông tin về những diễn biến trước mắt và dài hạn của nền kinh tế khu vực và thế giới, giúp cho lãnh đạo có đánh giá chuẩn xác, kịp thời để chỉ đạo, điều hành nền kinh tế trong nước phù hợp với quy luật khách quan và kinh tế phát triển chung.

Với mạng lưới Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới được ký kết, ngoại giao có trách nhiệm nặng nề là đưa các Hiệp định đã ký kết đi vào cuộc sống theo tinh thần đem lại lợi ích cao nhất cho đất nước, hạn chế tối đa những tác động bất ngờ của những thách thức có thể nảy sinh. Ngoại giao phải phối hợp chặt chẽ với các ngành hữu quan tích cực chủ động mở rộng thị trường, tìm kiếm đối tác thương mại và đầu tư du lịch với chất lượng cao, góp phần thực hiện chủ trương cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Song song với nhiệm vụ phát triển đất nước, ngoại giao còn phải gánh vác nhiệm vụ to lớn, hết sức phức tạp là góp phần quan trọng vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển. Nhiệm vụ này càng trở nên phức tạp và nặng nề hơn do những diễn biến mới của tình hình khu vực và thế giới, đòi hỏi phải hết sức nhạy bén trong việc dự báo tình hình để không bất ngờ, bị động.

Tổng Bí thư cho rằng, cần chú trọng công tác dự báo chiến lược, làm rõ nguồn gốc sâu xa của những diễn biến hiện nay đang diễn ra trên thế giới, nhất là mối quan hệ vừa hợp tác vừa cạnh tranh giữa các nước lớn tại các khu vực trọng yếu, kể cả châu Á-Thái Bình Dương và Đông Á có thể ảnh hưởng đến lợi ích của ta, kịp thời đề xuất phương án ứng xử cho trước mắt và lâu dài. 

Trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, cần nắm vững các quan điểm chỉ đạo về mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh, vừa kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, vừa phải hết sức giữ vững môi trường hòa bình để phát triển. Phải giữ vững nguyên tắc giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp hòa bình, trong đó có thương lượng song phương trên các vấn đề liên quan đến hai nước và đa phương đối với những vấn đề liên quan đến nhiều nước, nhiều bên; kiên trì phấn đấu nhằm đạt được giải pháp lâu dài trên cơ sở luật pháp quốc tế. 

Bên cạnh đó, trong thế giới liên kết toàn cầu hóa như hiện nay, đối ngoại quốc phòng, an ninh cũng có vị trí rất quan trọng. Ngành ngoại giao cần phối hợp chặt chẽ với quốc phòng, an ninh, chủ động triển khai hoạt động trong lĩnh vực trọng yếu này, giữ vững môi trường thuận lợi để phát triển và bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và mối quan hệ gắn bó hữu cơ tác động trực tiếp lẫn nhau nên phải được thường xuyên xác định là ưu tiên cao, là điều kiện quan trọng hàng đầu cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng chính là tư tưởng “bảo vệ đất nước từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy”.

Ngày nay, nhờ công cuộc đổi mới và chính sách đối ngoại hòa hiếu, rộng mở, Việt Nam đã có một vị thế mới trong quan hệ quốc tế. Nói cách khác, chúng ta phải luôn luôn đặt dân tộc mình vào dòng chảy của thời đại, nêu cao đại  nghĩa của dân tộc, tranh thủ được thiện cảm của nhân loại tiến bộ, nâng cao được thực lực và vị thế của đất nước một cách bền vững nhất.

Triển khai đường lối đối ngoại của Đại hội XII của Đảng, Tổng Bí thư chỉ rõ cần hết sức chú trọng quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn, các nước bạn bè truyền thống; nâng cao vai trò trung tâm của Cộng đồng ASEAN, kiên trì chủ trương tăng cường hợp tác trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi.

Ngành ngoại giao cần đi đầu phối hợp với đối ngoại nhân dân và các ngành văn hóa nghệ thuật, thông tin, truyền thông phát huy có hiệu quả nhất lợi thế sức mạnh mềm của đất nước, bắt đầu từ văn hóa. Với văn hóa không có sự xa cách, chỉ có sự đa dạng. Sức mạnh mềm của Việt Nam được thể hiện trước hết từ sự hấp dẫn tỏa ra từ các giá trị văn hóa, bao gồm các giá trị vật thể và phi vật thể, giá trị tinh thần và giá trị con người Việt Nam. Chúng ta phải phát huy được những giá trị đó để khẳng định thương hiệu quốc gia, có sức thu hút thế giới bên ngoài, góp phần nâng cao tinh thần tự tôn dân tộc, tự tin trong giao tiếp và quảng bá rộng rãi giá trị văn hóa của Việt Nam ra thế giới.

Để hoàn thành những nhiệm vụ đầy khó khăn thách thức nêu trên, theo Tổng Bí thư, công việc có ý nghĩa then chốt là tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cũng như xây dựng ngành, củng cố tổ chức và đội ngũ về mọi mặt nhằm nâng cao vai trò của tổ chức Đảng, bản lĩnh chính trị và tư cách đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

*Cũng tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho rằng, những thành tựu kinh tế – xã hội mà chúng ta đạt được vẫn còn ở mức độ khiêm tốn so với mặt bằng chung và nhịp độ phát triển của thế giới. Việt Nam có quy mô dân số đứng thứ 13 thế giới, nhưng quy mô nền kinh tế chỉ đứng thứ 38 và thu nhập bình quân đầu người đứng thứ 133, chỉ bằng hơn 1/5 mức trung bình của thế giới. Nguy cơ tụt hậu kinh tế xa hơn là rất hiện hữu. 

Vì vậy, các nhà ngoại giao phải năng động, tích cực, đổi mới hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư, phải tham gia chủ động vào các đối thoại chiến lược chính sách, hoạch định luật chơi, sân chơi kinh tế toàn cầu. Không để doanh nghiệp Việt Nam bỡ ngỡ về thông tin, lạc lối về thể chế và luật lệ ở thị trường quốc tế. Không chấp nhận những việc doanh nghiệp, nhà cung ứng của chúng ta bị chèn ép, bất công, bị thua thiệt trước các tập đoàn đa quốc gia. 

Về nhiệm vụ xây dựng Chính phủ kiến tạo đối với ngành ngoại giao trong giai đoạn mới, bài toán lớn đặt ra là làm sao để Việt Nam có thể lái con thuyền của mình giữa những dòng chảy chiến lược của các nước lớn với xu thế chủ đạo của khu vực và thế giới. Qua đó tận dụng và xác lập được vị thế của mình trong chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu cũng như tạo vị thế vững chắc về đối ngoại để giữ vững hòa bình, ổn định, phục vụ phát triển đồng thời phát huy vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế. 

Cân bằng được lợi ích của các nước lớn, phát huy tối đa thế và lực của đất nước, dựa trên các giá trị cơ bản của hệ thống quốc tế như luật pháp quốc tế và các định chế quốc tế, làm sao để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo đảm lợi ích quốc gia và nâng cao vị thế của Việt Nam. Đây là nhiệm vụ, thách thức chủ đạo đối với ngành ngoại giao. 

Để giải quyết bài toán trên, Thủ tướng cho rằng, ngành ngoại giao cần tập trung vào 5 vấn đề mấu chốt.

Thứ nhất,cần định hình được những ưu tiên chiến lược của đất nước và xác lập một tư duy chiến lược cho ngành ngoại giao trong thời kỳ mới. Cần xác định đâu là những lợi ích quốc gia cốt lõi trong bảo vệ chủ quyền, bảo đảm an ninh, phát triển kinh tế-xã hội và phát huy ảnh hưởng của nước ta trên trường quốc tế. Cần xác định đâu là những vấn đề bất biến, không thể xâm phạm, đâu là những lợi ích có thể dung hòa được với các nước khác. Đó cũng là vận dụng nhuần nhuyễn tư tưởng Hồ Chí Minh trong ngoại giao: Dĩ bất biến, ứng vạn biến.

Thứ hai,Việt Nam cần tham gia và đóng vai trò quan trọng hơn nữa trong việc xây dựng thể chế của các định chế quốc tế nhằm tạo ra thế và lực cho đất nước, tiêu biểu là các định chế quan trọng như Liên Hợp Quốc, WB, IMF, ASEAN, ASEM, APEC…

Thứ ba,ngoại giao cần chủ động đề xuất triển khai phối hợp tốt với trong nước. Hoạt động ngoại giao không chỉ nằm ở Bộ Ngoại giao mà cần sự hỗ trợ tích cực từ trong nước, đặc biệt là các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp. Các hoạt động ngoại giao kinh tế, phát triển cần quán triệt phương châm tham mưu, triển khai, đồng hành và liên kết sâu rộng.

Thứ tư,cần có sự phối hợp chặt chẽ, thống nhất về nhiệm vụ đối ngoại và quản lý đối ngoại. Làm sao để hội nhập sâu rộng mà không mất chế độ, không thay đổi bản chất của Đảng ta, thực hiện tốt Hiến pháp.

Thứ nămlà các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, những nhà ngoại giao và cán bộ thương mại phải đại diện một cách chân thực nhất, tối ưu nhất cho hình ảnh của Việt Nam, lợi ích của Việt Nam ở nước sở tại. 

Các đại sứ, trưởng đại diện thương mại, các nhà ngoại giao Việt Nam của thế kỷ XXI phải gánh vác trọng trách lớn lao trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, số hóa, mang trong mình vai trò kiến tạo phát triển đất nước trong một thế giới đầy cạnh tranh phức tạp và bất định. Chính phủ tin tưởng rằng các cán bộ ngoại giao sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, góp phần đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững trong giai đoạn tới.

 (nguồn Trung tâm Thông tin công tác tư tưởng Thành phố)