Nhân dân Sài Gòn biểu tình giành chính quyền ngày 25-8-1945.  Ảnh Tư liệu

 

1945-1954: Đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế kháng chiến

 

Đây là thời kỳ đầu tiên xây dựng chế độ kinh tế mới ở nước ta và là giai đoạn khó khăn nhất, gian khổ nhất vì vừa phải kháng chiến chống giặc, vừa phát triển kinh tế trong điều kiện nghèo nàn, thiếu thốn. Đặc trưng nền kinh tế Việt Nam thời kỳ này là kinh tế nông thôn có quy mô rất thấp, tiềm lực yếu kém. GDP bình quân đầu người năm 1945 chỉ đạt 60 đồng, tương đương 35 USD.

 

Cùng với động viên toàn dân tích cực tăng gia sản xuất, Chính phủ từng bước thực hiện các chính sách về ruộng đất như giảm tô, giảm tức. Nhờ thế,nông nghiệp trong thời kỳ kháng chiến ổn định và cung cấp đủ lương thực cho kháng chiến. Sản lượng lương thực các vùng giải phóng năm 1954 đạt gần 3 triệu tấn, tăng 13,7% so với năm 1946. Nông nghiệp hoàn thành sứ mệnh “nền tảng của kinh tế kháng chiến”, góp phần giải quyết nạn đói năm 1945-1946.

 

Công nghiệp và thủ công nghiệp kháng chiến được xây dựng, đặc biệt là công nghiệp quốc phòng góp phần không nhỏ đáp ứng nhu cầu chiến đấu và tiêu dùng. Những năm 1946-1950 đã sản xuất 20 nghìn tấn than cốc, 800 kg ăng-ti-moan; 1950-1952 sản xuất được 29,5 tấn thiếc; 43 tấn chì; 1950-1954 sản xuất được 169,3 triệu mét vải; 31,7 nghìn tấn giấy…

 

Chính sách khuyến khích mở rộng việc buôn bán với nhiều văn bản pháp lý như: Nghị định của Chính phủ ngày 02 tháng 10 năm 1945 về bãi bỏ các luật lệ hạn chế kinh doanh dưới thời Pháp, Nhật; Sắc lệnh của Chủ tịch nước ngày 22 tháng 9 năm 1945 về xóa bỏ các tổ chức độc quyền kinh doanh của người Pháp, Nghị định ngày 19 tháng 9 năm 1945 của Bộ Quốc dân Kinh tế về xóa bỏ mọi hạn chế lưu thông hàng hóa thông thường…nên dù hàng hóa có khan hiếm nhưng vẫn có thể dễ dàng mua hàng hóa thiết yếu ở các chợ. Tuy nhiên, 1945-1954 lạm phát nghiêm trọng, chỉ số giá bán lẻ bình quân năm tăng khoảng 66%.

 

Sự nghiệp giáo dục chống “giặc dốt”là một trong những nhiệm vụ hàng đầu. Thời kỳ này có khoảng 10,5 triệu người thoát nạn mù chữ. Năm 1943, chúng ta mới có 771 cơ sở chữa bệnh, trong đó có 421 bệnh xá, 212 nhà hộ sinh, và 39 bệnh viện.Vớisố cơ sở khám chữa bệnh còn thưa thớt, Đảng và Chính phủ luôn đề cao hàng đầu nhiệm vụ bảo vệ sức khỏe nhân dân.

 

1955-1975: Khôi phục, phát triển kinh tế sau chiến tranh

 

Trong thời kỳ này, Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành công nghiệp và nông nghiệp. Năm 1975, GDP bình quân đầu người đạt 232 đồng, tương đương 80 USD.

 

Trong lĩnh vực nông nghiệp, năm 1975 có 17 nghìn hợp tác xã, tăng 12,2 nghìn hợp tác xã so với năm 1958; sản lượng lương thực đạt 5,49 triệu tấn thóc, tăng 1,73 triệu tấn so với năm 1955; đàn lợn có 6,6 triệu con, tăng 4,2 triệu con. Sản xuất công nghiệp từng bước khôi phục và phát triển, nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp được phục hồi và xây dựng. Năm 1975, tổng sản lượng công nghiệp đạt 4.175,4 tỷ đồng, gấp 13,8 lần năm 1955; bình quân năm tăng 14%/năm.Thương nghiệp quốc doanh phát triển nhanh chóng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội năm 1975 đạt 5.358,3 triệu đồng, gấp 7,8 lần năm 1955. Chỉ số giá bán lẻ giai đoạn 1955 -1975 mỗi năm tăng 4,3%.

 

Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân cũng nâng lên. Năm 1975 có 6.796,9 nghìn người đi học, gấp 5,3 lần năm 1955. Về ngành y, y tế nông thôn ở miền Bắc có những thay đổi rõ rệt: số bệnh viện được đầu tư xây dựng, từ 57 bệnh viện, 17 bệnh xá năm 1955 lên thành 442 bệnh viện và 645 bệnh xá năm 1975. Số lượng cán bộ ngành y cũng tăng nhanh,từ 108 bác sĩ năm 1955 lên 5.684 bác sĩ năm 1975. Năm 1975, thu nhập bình quân đầu người hàng tháng của gia đình công nhân viên chức miền Bắc là 27,6 đồng (tăng 57,7% so với năm 1945); của gia đình xã viên nông nghiệp là 18,6 đồng (gấp 2,6 lần).

 

1976-1985: Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp

 

Thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980) và Kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981-1985) đạt nhiều thành tựu quan trọng: Khắc phục từng bước những hậu quả nặng nề của chiến tranh; khôi phục phần lớn cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, giao thông ở miền Bắc và xây dựng lại các vùng nông thôn ở miền Nam bị chiến tranh tàn phá. Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao.

 

 

Thanh niên xung phong về các vùng quê xây dựng các nông trường, vùng kinh tế mới

 

Bình quân mỗi năm tổng sản phẩm trong nước tăng 4,65%, trong đó: nông, lâm nghiệp tăng 4,49%/năm; công nghiệp tăng 5,54%/năm và xây dựng tăng 2,18%/năm. Theo loại hình sở hữu, sở hữu quốc doanh tăng 4,29%; sở hữu tập thể tăng 10,26% và sở hữu tư nhân, cá thể tăng 0,71%. Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế thời kỳ này thấp. Nông, lâm nghiệp là ngành kinh tế quan trọng (chiếm 38,92% GDP), nhưng chủ yếu dựa vào độc canh trồng lúa nước. Công nghiệp được dồn lực đầu tư nên có tăng khá hơn nhưng tỷ trọng còn thấp (chiếm 39,74% GDP), chưa là động lực để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng.

 

Thương nghiệp quốc doanh phát triển nhanh chóng, hợp tác xã ở thời kỳ đầu xây dựng nhưng đã vươn lên chiếm lĩnh thị trường, hạn chế được nạn đầu cơ, tích trữ và tình trạng hỗn loạn về giá cả. Tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội bình quân tăng 61,6%/năm.Tuy nhiên, kinh tế tăng trưởng chậm, thiếu hụt nguồn cung, vàdo tác động bởi cải cách tiền lương vào năm 1985nênchỉ số giá bán lẻ tăng rất cao, bình quân tăng 39,53%/năm.

 

Chính phủ chủ trương xóa nạn mù chữ và đẩy mạnh bổ túc văn hóa là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Đầu năm 1978, tất cả các tỉnh và thành phố miền Nam đã căn bản xoá nạn mù chữ. Trong 1.405,9 nghìn người được xác định không biết chữ, có 1.323,7 nghìn người thoát nạn mù chữ. Công tác dạy nghề cũng phát triển mạnh. Đến năm 1985, có 314 trường trung học chuyên nghiệp, 128,5 nghìn sinh viên và 11,4 nghìn giáo viên (tăng 9% số sinh viên và 44,9% số giáo viên so với năm 1977).

 

Hệ thống y tế được mở rộng, xây mới và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Số giường bệnh thuộc các cơ sở y tế tăng từ 89,4 nghìn giường năm 1976 lên 114,7 nghìn giường năm 1985. Số nhân viên y tế tăng từ 110,9 nghìn người năm 1976 lên 160,2 nghìn người năm 1985, trong đó số bác sĩ tăng từ 9.104 người lên 19.029 người.

 

Ở miền Bắc, thu nhập bình quân đầu người hàng tháng của gia đình công nhân viên chức tăng từ 27,9 đồng năm 1976 lên đến 270 đồng năm 1984; của gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp tăng từ 18,7 đồng lên đến 505,7 đồng, nhưng do lạm phát cao, nên đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, thiếu thốn.

 

1986-2000: Thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế

 

Nhận ra những bất cập của cơ chế kinh tế hiện hành, Nhà nước bắt đầu có một số thay đổi trong chính sách quản lý kinh tế:thực hiện đường lối đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa.

 

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày 15 đến 18-12-1986.

 

Đường lối đổi mới nhận được sự hưởng ứng rộng rãi của nhân dân, khơi dậy tiềm năng và sức sáng tạo của các loại hình kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm và tăng sản phẩm xã hội. Giai đoạn 1986-2000, tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm tăng 6,51%: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,72%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,06%; khu vực dịch vụ tăng 6,66%. Đây là kết quả đáng ghi nhận nếu so với tốc độ tăng của kinh tế thế giới và sự giảm sút nhanh của các nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung ở Đông Âu và Liên Xô khi chuyển sang kinh tế thị trường. Cơ cấu kinh tế từng bước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Năm 2000, tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 24,53% GDP, so với năm 1986 giảm 13,53 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 36,73%, tăng 7,85 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ chiếm 38,74%, tăng 5,68 điểm phần trăm.

 

Một trong những thành tựu kinh tế to lớn của thời kỳ nàylà phát triển sản xuất nông nghiệpcónội dung cơ bản là khoán gọn đến hộ nông dân, thừa nhận đó là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn, đánh dấu thời kỳ đổi mới trong nông nghiệp và nông thôn. Việt Nam từ nước thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới. Năm 2000, tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 34,5 triệu tấn, gấp 2,1 lần năm 1986; lương thực có hạt bình quân đầu người đạt 444,8 kg, gấp 1,6 lần; xuất khẩu gạo đạt 3.477 nghìn tấn, gấp hơn 26 lần.

 

Sản xuất công nghiệp dần phát triển ổn định với tốc độ tăng bình quân mỗi năm đạt 11,09%. Những sản phẩm công nghiệp quan trọng phục vụ sản xuất và tiêu dùng đều tăng về số lượng và chất lượng. So với năm 1986, sản lượng điện năm 2000 gấp 4,7 lần; sản lượng xi măng gấp 8,7 lần; thép cán gấp 25,6 lần; thiếc gấp 3,6 lần; dầu thô tăng từ 41 nghìn tấn lên 16,3 triệu tấn. Sản xuất công nghiệp quan tâm hơn đến chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã, áp dụng công nghệ tiên tiến và thay đổi phương án sản xuất theo yêu cầu của thị trường.Do sản xuất, kinh doanh hồi phục và phát triển nên siêu lạm phát được kiềm chế. Giá bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng từ tăng 3 chữ số/năm trong 3 năm1986-1988, giảm còn tăng một chữ số trong giai đoạn1993-2000. Chỉ số giá tiêu dùng từ tăng 349,4%so với năm trước 1987; năm 1992 chỉ tăng 17,5% và đến năm 2000 giảm 0,6%.

 

Văn hóa, giáo dục, y tế và các lĩnh vực xã hội khác được củng cố và tăng cường. Đến giữa năm 2000, cả nước hoàn thành chương trình mục tiêu chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Chính sách cải cách tiền lương đã thúc đẩy phát triển sản xuất,đời sống nhân dân cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người/tháng của dân cư tăng nhanh từ khoảng 1.600 đồng năm 1986 lên 295.000 đồng năm 1999, góp phần làm cho công cuộc xóa đói giảm nghèo đạt những kết quả đáng kể. Năm 1993, tỷ lệ nghèo chung ở nước ta tính theo phương pháp của Ngân hàng Thế giới là 58,1%, thì đến năm 1998 giảm còn 37,4%.

 

2001 đến nay: Hội nhập quốc tế sâu rộng

 

Thời kỳ này, nước ta thực hiện hai Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2001-2010,và giai đoạn 2011 – 2020 nhằm xây dựng nước Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” theo phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng cùng có lợi, không can thiệp công việc nội bộ, cùng phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Tranh thủ được thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, năm 2008, Việt Nam bước vào nhóm nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình thấp. Giai đoạn 2001-2010,bình quân hàng năm tốc độ GDP tăng 7,26%;giai đoạn 2011-2019, GDP tăng 6,3%/năm, trong đónăm 2018 tăng 7,08% -mức tăng cao nhất kể từ năm 2008. Năm 2019,GDP bình quân đầu người đạt 2.715 USD, gấp 15 lần năm 1990; thu nhập bình quân đầu người/ thángđạt 4.294,5 nghìn đồng, gấp 12 lần năm 2002.

 

Tăng trưởng kinh tế dịch chuyển sang chiều sâu, đóng góp năng suất của các nhân tố tổng hợp ngày một lớn. Năng suất lao động (NSLĐ) ngày càng cải thiện đáng kể:giai đoạn 2016-2019, tăng 5,86%/năm, cao hơn tốc độ 4,35%/năm của giai đoạn 2011-2015. Cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch theo hướng hiện đại. Tỷ trọng các ngành, trình độ công nghệ sản xuất, cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tích cực; tỷ trọng lao động qua đào tạo đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế.

 

Hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển toàn diện và sâu rộng, hội nhập ngày càng đầy đủ với kinh tế khu vực và thế giới. Lưu chuyển hàng hóa ngoại thương giai đoạn 2011-2019 đạt 3.100,3 tỷ USD, gấp 20,2 lần giai đoạn 1991-2000 và gấp 3,6 lần giai đoạn 2001-2010. Tỷ lệ tổng kim ngạch xuất nhập khẩu so với GDP từ 112,5% năm 2000 lên 152,2% năm 2010 và 210,4% vào năm 2019; cho thấy kinh tế nước ta có độ mở ngày càng cao và tăng tương đối nhanh, đã khai thác được thế mạnh của kinh tế trong nước và tranh thủ được thị trường thế giới.

 

Từ năm 1988 triển khai thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài, thu hút đầu tư nước ngoài đạt nhiều kết quả đáng khích lệ. Năm 2019, có 4.028 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng vốn đăng ký đạt 38.951,7 triệu USD, tương ứng gấp 19,1 lần và 24,3 lần giai đoạn 1988-1990. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành kênh huy động vốn quan trọng, có tác dụng to lớn trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao năng lực quản lý và trình độ công nghệ cho nền kinh tế. Đặc biệt là thúc đẩy mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với các nước trong khu vực và trên thế giới.

 

Trong thời kỳ này, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chương trình mục tiêu quốc gia Xoá đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001-2005; Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo giai đoạn 2006-2010; Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2012-2015; Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020. Từ đó, tỷ lệ nghèo chung của Việt Nam từ mức 28,9% ở năm 2002, đến năm 2018 chỉ còn 6,7%.

 

Đại lộ Võ Văn Kiệt ở Thành phố Hồ Chí Minh

 

Những dấu ấn nêu trên trong 75 năm qua đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, chính sách, đường lối nhất quán của Nhà nước về phát triển kinh tế – xã hội. Vị thế của Việt Nam đã thay đổi đáng kể: Năm 2019 đứng thứ 8 thế giới và thứ 2 trong khu vực ASEAN về tốc độ tăng trưởng GDP; là một trong 30 nước có tăng trưởng xuất, nhập khẩu cao và quy mô xuất khẩu đứng thứ 22 trên thế giới; đứng thứ 25 thế giới về hấp dẫn vốn FDI. Chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) năm 2019 tăng lên 10 bậc, xếp thứ 67/141 quốc gia và vùng lãnh thổ; chỉ số HDI xếp hạng 117/177 quốc gia, vùng lãnh thổ.

 

Số liệu thống kê sơ bộ mới nhất của Tổng cục Hải quan cho thấy tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong kỳ 2 tháng 7 (từ ngày 16-31/7) đạt 25,51 tỷ USD, tăng 19,3% (tương ứng tăng 4,12 tỷ USD) so với kết quả thực hiện trong nửa đầu tháng này.


Về ngoại giao kinh tế, đã có trên 70 nước công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Việt Nam đã tham gia tích cực vào việc đàm phán, ký kết, phê chuẩn các Hiệp định thương mại tự do (FTA) với 16 FTA song phương và đa phương. Đặc biệt, ngày 30 tháng 3 năm 2020, Nghị viện châu Âu đã thông qua EVFTA giữa EU và Việt Nam.Quốc hội nước ta phê chuẩn Hiệp định này vào ngày 08 tháng 6 năm 2020, không chỉ góp phần thúc đẩy thương mại và đầu tư cho nền kinh tế Việt Nam, mà còn thể hiện sự chủ động trong việc hình thành hệ thống thương mại quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189 quốc gia. Hoạt động đối ngoại ngày càng được mở rộng và khẳng định rõ bản lĩnh và bản sắc của Việt Nam với tư cách là một thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, cảtrong khu vực ASEAN và trên thế giới.

 

Trong đại dịch Covid-19, Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng nặng nề nhưng nhờ có các biện pháp đối phó chủ động, tác động dịch bệnh không nghiêm trọng như nhiều quốc gia khác; kinh tế vĩ mô và tài khóa giữ được ổn định với mức tăng trưởng GDP ước đạt 1,81% trong 6 tháng đầu năm 2020. Tuy nhiên, Đại dịch Covid-19 cũng cho thấy,để kinh tế sớm phục hồi,cần cải cách mạnh mẽ về môi trường kinh doanh, thúc đẩy kinh tế số, nâng cao hiệu quả đầu tư công…

 

 

viet nam doan ket dong long lan toa tinh thuong trong cuoc chien chong dai dich covid 19
Việt Nam kiên cường chiến đấu và quyết chiến thắng đại dịch Covid-19.

 

75 năm kể từ thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, tuy còn không ít hạn chế, nước ta đã từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, qua quá trình phấn đấu, chuyển đổi mô hình, hoàn thiện môi trường thể chế, hội nhập kinh tế sâu rộng, đến nay nền kinh tế nước ta từng bước gia tăng về quy mô; được xếp vào các nền kinh tế có mức tăng trưởng cao trên thế giới; trở thành nước có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục hoàn thiện đường lối xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ mới.

 

Theo Tổng cục Thống kê