Tuy nhiên, Việt Nam cũng đang đối mặt nhiều thách thức, nổi bật là: Tăng gánh nặng nợ công và áp lực kiểm soát bội chi NSNN; Gắn chi tiêu công với các ưu tiên của quốc gia để bảo đảm công bằng và tăng trưởng bền vững; Tăng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình về kết quả và giám sát hiệu quả hoạt động chi tiêu công, bền vững tài khóa và an toàn tài chính quốc gia, giai đoạn 2016-2020.

 

 

Đặc biệt, nợ công của Việt Nam đang tăng nhanh về tốc độ, mở rộng về quy mô, tiệm cận giới hạn cho phép (riêng nợ Chính phủ đã vượt trần từ cuối năm 2015). Các điều kiện vay và dịch vụ nợ công ngày càng ngặt nghèo và đắt đỏ hơn.

Dự kiến, nợ công đến 31/12/2016 ước khoảng 63,2% GDP và xu hướng tăng chưa có điểm dừng, dịch vụ nợ công sẽ đạt đỉnh vào năm 2020-2022.

Theo Quyết định 1011/QĐ-TTg ngày 3/6/2016 của Thủ tướng Chính phủ về kế hoạch vay, trả nợ của Chính phủ và các hạn mức vay nợ năm 2016: Kế hoạch vay của Chính phủ năm 2016 là 452.000 tỷ đồng (bao gồm: vay để bù đắp bội chi là 254.000 tỷ đồng; phát hành trái phiếu Chính phủ cho đầu tư là 60.000 tỷ đồng; vay ODA, ưu đãi để cho vay lại là 43.000 tỷ đồng; vay đảo nợ khoảng 95.000 tỷ đồng).

Cơ cấu nguồn vay là: Vay trong nước thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ, vay từ Quỹ Bảo hiểm xã hội và SCIC: 336.000 tỷ đồng. Vay nước ngoài từ nguồn vốn ODA, ưu đãi 4,7 tỷ USD (tương đương 99.000 tỷ đồng, trong đó 43.000 tỷ đồng cho vay lại và 56.000 tỷ đồng để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước). Huy động 17.000 tỷ đồng thông qua các hình thức khác, như: phát hành trái phiếu ngoại tệ trong nước, phát hành trái phiếu quốc tế. Kế hoạch trả nợ của Chính phủ năm 2016 là 273.300 tỷ đồng; trong đó: Trả nợ trực tiếp của Chính phủ được bố trí trong dự toán ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2016 là 154.000 tỷ đồng (bằng 15,2% dự toán thu NSNN năm 2016); Trả nợ vay nước ngoài của Chính phủ về cho vay lại khoảng 24.000 tỷ đồng; Đảo nợ khoảng 95.000 tỷ đồng.

Hạn mức vay được Chính phủ bảo lãnh và vay thương mại trung dài hạn nước ngoài của các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng theo phương thức tự vay tự trả năm 2016, bao gồm: Hạn mức vay trong nước được Chính phủ bảo lãnh năm 2016 tối đa là 39.000 tỷ đồng, bao gồm Ngân hàng Phát triển Việt Nam tối đa là 23.000 tỷ đồng; Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam tối đa là 13.000 tỷ đồng; các dự án trọng điểm quốc gia tối đa là 3.000 tỷ đồng.

Hạn mức vay thương mại nước ngoài của các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng được Chính phủ bảo lãnh tối đa là 1,5 tỷ USD. Hạn mức vay thương mại nước ngoài của các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng theo phương thức tự vay tự trả là 5,5 tỷ USD. Hạn mức trái phiếu chính quyền địa phương là 12.500 tỷ đồng.

Đáng chú ý là Quyết định trên căn cứ vào Luật NSNN năm 2002, do Luật NSNN mới sẽ chỉ có hiệu lực vào đầu năm 2017. Khi Luật mới này có hiệu lực, vốn trái phiếu chính phủ sẽ được tính vào bội chi, và như vậy, số bội chi dự kiến sẽ cao lên.

Nợ công vừa là điều kiện tăng đầu tư phát triển hạ tầng, tạo động lực khơi nguồn đầu tư phát triển quốc gia, vừa là kết quả các hoạt động quản lý nhà nước và đầu tư doanh nghiệp. Nợ công tăng một phần do tăng chi tiêu công trực tiếp nhằm giải tỏa các nguy cơ và hệ quả tiêu cực của trì trệ kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, và giữ ổn định nền kinh tế. Ngược lại, khi nợ công mất kiểm soát và gây vỡ nợ quốc gia thì thảm họa là khôn lường, cú sốc khủng hoảng tài chính có thể nhanh chóng biến thành khủng hoảng kinh tế và bất ổn xã hội.

Thực tiễn thế giới hiện đại cho thấy, nợ và các điều kiện về nợ ngày càng trở thành tác nhân và công cụ mạnh mẽ chi phối đời sống chính trị và chính sách quốc gia. Quan điểm và quá trình xử lý nợ không chỉ phản ánh quan điểm chính trị, lợi ích và tương quan lực lượng xã hội trong nước và quốc tế, mà còn phản ánh vị thế của con nợ và chủ nợ. Những điều kiện tín dụng ngày càng ngặt nghèo, nhất là tạo áp lực thắt chặt chi tiêu, sẽ kéo theo những hệ quả khôn lường nhiều mặt.

Nợ công ở Việt Nam có mối liên hệ trực tiếp với xu hướng kéo dài chi vượt dự toán và không chấp hành nghiêm túc quy trình quản lý NSNN theo luật NSNN (năm 2014 dự toán bội chi NSNN là 224.000 tỷ đồng, bằng 5,3% GDP, nhưng theo báo cáo quyết toán NSNN năm 2014, bội chi NSNN là 260.145 tỷ đồng, bằng 6,61% GDP, tăng 36.145 tỷ đồng so với dự toán).

Qua báo cáo kiểm toán Nhà nước cho thấy, công tác quản lý thu – chi ngân sách còn nhiều tồn tại, hạn chế, thậm chí nhiều sai phạm ở các cấp. Những hạn chế, tồn tại trong quyết toán năm nào cũng có và lặp lại; Các sai phạm về quản lý tài chính ngân sách được phát hiện, xử lý và thu hồi, giảm thanh toán theo kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước đang tăng chóng mặt, với quy mô thành tiền lớn hơn 17 lần chỉ trong 5 năm qua, từ 317 tỷ đồng (năm 2009), lên 658 tỷ đồng (năm 2010); 708 tỷ đồng (năm 2011); 2.252 tỷ đồng năm 2012 và năm 2013 là 5.304,2 tỷ đồng.

Riêng năm 2015, cơ quan thuế đã thu khoảng 2.000 tỷ đồng theo kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước và kết luận thanh tra của cơ quan chức năng; Kiểm tra, rà soát đôn đốc thu thêm vào NSNN hơn 14,3 ngàn tỷ đồng từ cổ tức được chia của các ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước nắm cổ phần chi phối và lợi nhuận còn lại phát sinh của các doanh nghiệp lớn…

Vì vậy, thời gian tới, đòi hỏi sự vào cuộc quyết liệt, thực chất hơn của hoạt động giám sát Quốc hội để kiểm soát nợ công, cần tăng cường công cụ kiểm toán trong giám sát nợ công. Chủ động ngăn chặn sự lạm dụng, và thất thoát, lãng phí đầu tư và chi tiêu công; xiết chặt và tăng cường kỷ luật, năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý, sử dụng nợ công; làm rõ trách nhiệm cá nhân cụ thể và nghiêm khắc hơn về vay nợ và trả nợ công; cơ cấu lại NSNN là nhiệm vụ có tính cấp bách và phải làm thường xuyên.

 (nguồn Trung tâm Thông tin công tác tư tưởng Thành phố)