Kinh tế Trung Quốc và nguy cơ “hạ cánh cứng”

Nền kinh tế Trung Quốc “chạy marathon” từ năm 1978 thời ông Đặng Tiểu Bình đến bây giờ. Khẩu hiệu đốc thúc nền kinh tế Trung Quốc từ năm 1978 đến năm 2010 là nhanh “đuổi kịp Pháp vượt Pháp, đuổi kịp Anh vượt Anh, đuổi kịp Đức vượt Đức, đuổi kịp Nhật vượt Nhật…” và họ đã đạt được thành tựu đáng kể. Quy mô nền kinh tế Trung Quốc vượt qua Nhật Bản, trở thành cường quốc thứ hai trên thế giới.

Tuy nhiên, đó chỉ là “mặt trước” của “tấm huy chương”, Trung Quốc còn mặt sau của nó là mặt chất lượng, kinh tế Trung Quốc rất thấp. Nguyên Thủ tướng Ôn Gia Bảo từng phát biểu trước thềm Đại hội XVIII Đảng Cộng sản Trung Quốc vào đầu năm 2012 rằng: “Nền kinh tế Trung Quốc hiện đang mất cân bằng, không hợp lý và không bền vững…”. Đơn cử, để sản xuất ra 1 USD hàng hóa, dịch vụ, Trung Quốc tiêu tốn hơn Nhật Bản 3 lần năng lượng, hơn Đức 2,8 lần và hơn Mỹ 3 lần. Điều này chứng tỏ nền kinh tế Trung Quốc hiệu quả rất thấp, lãng phí tài nguyên. Họ chỉ chạy theo số lượng, dốc toàn lực vào đuổi kịp tổng lượng GDP, vượt Pháp, Anh, Đức, Nhật nhưng để lại một hậu quả khủng khiếp cho kinh tế Trung Quốc.

Kinh tế Trung Quốc từ năm 2013 đến nay, đặc biệt là năm 2015-2016 đang chịu đồng thời hai cuộc khủng hoảng cộng hưởng vào nhau nhưng họ không thừa nhận. Đầu tiên là khủng hoảng sản xuất thừa (xi măng, sắt thép, hàng tiêu dùng). Từ năm 2015,  các xí nghiệp công nghiệp Trung Quốc chỉ sản xuất cầm chừng 50-60% công suất thiết kế. Trong kho hàng của Trung Quốc hiện nay còn chất chứa 50 tỷ USD hàng hóa dư không bán được. Cuộc khủng hoảng thứ hai Trung Quốc không thừa nhận nhưng thực tế là có, đó là khủng hoảng về nợ công và nợ xấu. Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), tổng nợ của kinh tế Trung Quốc tăng đến 28.000 tỷ USD, gấp 3 lần GDP một năm của nước này và gần bằng một nửa tổng nợ toàn cầu.  

Chính phủ nước này đang cố gắng giảm thiểu tình trạng dư thừa công suất tại các nhà máy công nghiệp nhưng phải đảm bảo không gây xáo trộn trong nền kinh tế cũng như cắt giảm quá nhiều việc làm.

Dự trữ ngoại hối của Trung Quốc giảm xuống thấp nhất kể từ năm 2012. Thông cáo của Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBOC) cho thấy, PBOC đã phải bán USD khi NDT xuống thấp nhất 5 năm. Theo đó, dự trữ ngoại hối của nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới trong tháng 3/2016 giảm xuống còn khoảng 3,2 nghìn tỷ USD…

Triển vọng tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong năm 2016 được Quỹ Tiền tệ Quốc tế – IMF dự báo sẽ chậm lại và có nguy cơ “hạ cánh cứng”, do công suất dư thừa và nợ cao. Việc Trung Quốc chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng phụ thuộc vào tiêu dùng trong nước và hệ thống tài chính tuân thủ các nguyên tắc thị trường sẽ là nhiệm vụ “đầy rủi ro” với “những thách thức chưa từng thấy”.

IMF dự báo tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc đạt 6,5% trong năm 2016 giảm so với mức 6,98% của năm 2015. Tương tự, WordBank (1/2016) đã hạ dự báo về tăng trưởng của nước này cho năm 2016 từ mức 7% xuống còn 6,7%, do giá cả hàng hóa giảm mạnh và thị trường chứng khoán liên tục sụt giảm.

Những tác động tới kinh tế Việt Nam

Là một nền kinh tế lớn với đóng góp 23% tăng trưởng kinh tế toàn cầu, Trung Quốc có tác động rất lớn tới kinh tế thế giới. Với Việt Nam nằm ở vị thế ngay sát Trung Quốc, cho nên việc nước ta phụ thuộc và chịu tác động vào nền kinh tế Trung Quốc là điều khó có thể tránh khỏi. Như vậy, sự suy giảm của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới chắc chắn sẽ có tác động trực tiếp và mạnh mẽ tới nền kinh tế nước ta.

Dự báo về những diễn biến khó lường của kinh tế Trung Quốc, Trung tâm Nghiên cứu Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam (BIDV) đã xây dựng một nghiên cứu đánh giá về tác động đến Việt Nam. Theo nghiên cứu này, tăng trưởng nền kinh tế Trung Quốc giảm sút có tác động cả về mặt trực tiếp lẫn gián tiếp và cả tích cực lẫn tiêu cực đối với nền kinh tế Việt Nam.

– Về mặt tích cực: Khi nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng thấp hơn dẫn đến cầu hàng hóa trên thế giới sẽ giảm, từ đó tạo điều kiện giảm chi phí đầu vào sản xuất của Việt Nam. Bên cạnh đó, những biến động trên thị trường chứng khoán và ngoại tệ Trung Quốc hiện nay có thể dẫn đến sự chuyển đổi danh mục đầu tư của các nhà đầu tư Trung Quốc và các nhà đầu tư quốc tế trên thị trường chứng khoán Trung Quốc.

Theo đó, một phần dòng vốn đầu tư tại thị trường chứng khoán Trung Quốc có thể chuyển hướng sang các thị trường chứng khoán khác, trong đó có Việt Nam nhằm tìm kiếm một thị trường thay thế an toàn và tiềm năng hơn.

– Về mặt tiêu cực: Kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm, trước hết có thể tác động đến thương mại Việt Nam – Trung Quốc theo hướng giảm xuất khẩu của Việt Nam, trong khi nhập khẩu từ Trung Quốc tăng. Chưa kể, khi tổng cầu suy yếu, năng lực sản xuất của Trung Quốc tiếp tục dư thừa, do đó nước này buộc phải tìm cách để bảo hộ thị trường nội địa trước hàng nhập khẩu, trong đó có hàng nhập từ Việt Nam.

Tóm lại, sự giảm tốc của nền kinh tế Trung Quốc có tác động hai chiều tới nền kinh tế Việt Nam. Với việc mất giá của đồng NDT, chi phí nhập khẩu các mặt hàng từ Trung Quốc sẽ giảm, nhờ đó sản xuất nước ta sẽ có điều kiện hạ giá thành, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và tăng trưởng kinh tế.

Tuy nhiên, khi đồng NDT phá giá, các nhóm mặt hàng là nguyên nhiên liệu, máy móc thiết bị phụ tùng phục vụ cho sản xuất và xuất khẩu được nhập chủ yếu từ thị trường Trung Quốc sẽ càng ngày càng tăng, gây áp lực tăng nhập siêu.

Ứng phó với tác động từ kinh tế Trung Quốc

Để có thể ứng phó với tác động hai chiều, do sự giảm tốc của kinh tế Trung Quốc đem lại, giới chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần kịp thời có những điều chỉnh về chính sách, như vậy mới có thể giảm tối đa những tổn thất. Dự báo về những biến đổi của nền kinh tế Trung Quốc, Trung tâm nghiên cứu của BIDV cũng đã xây dựng 2 kịch bản về tác động của kinh tế Trung Quốc đến nền kinh tế Việt Nam trong năm 2016. Cụ thể:

Kịch bản 1: Kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm lại nhưng vẫn trong tầm kiểm soát, NDT giảm giá tối đa 5% so với USD. Khi đó, tăng trưởng của Việt Nam đạt 6,8%, lạm phát 2,5 – 3%, nhập siêu dự kiến khoảng 6 tỷ USD. Thị trường ngoại hối có thể diễn biến khá ổn định, tỷ giá VND/USD tăng thêm khoảng 4%, dao động trong khoảng 22.500 – 23.400 VND/USD.

Kịch bản 2: Kinh tế Trung Quốc suy giảm nhanh, NDT giảm giá nhanh tới 7 – 8% so với USD. Khi đó, tăng trưởng của Việt Nam chỉ còn 6,5%, lạm phát rất thấp 1 – 1,5%. Nhập siêu nới rộng, đặc biệt là từ Trung Quốc, có thể lên đến 8 – 9 tỷ USD. Xuất khẩu gặp khó khăn, hàng hóa xuất khẩu sang Trung Quốc chịu tình trạng ép giá. Thị trường ngoại hối sẽ thường xuyên diễn biến căng thẳng, tỷ giá VND/USD có thể tăng mạnh khoảng 6%.

Nhìn nhận diễn biến tình hình suy giảm tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc trong năm 2015 và những tháng đầu năm 2016, Chính phủ Việt Nam đã đề ra những giải pháp, chính sách kịp thời, hiệu quả làm giảm tới mức thấp nhất những ảnh hưởng từ nền kinh tế Trung Quốc (như chính sách điều chỉnh tăng biên độ tỷ giá).

Về tổng thể nền kinh tế nước ta vẫn đang kiểm soát tốt kinh tế vĩ mô, thị trường ngoại tệ, tỷ giá đã ổn định trở lại, hoạt động xuất nhập khẩu cũng như sản xuất kinh doanh vẫn đảm bảo mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, về lâu dài, việc suy giảm tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc sẽ có những tác động nhất định đến tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam. Vì vậy, theo nhận định của giới chuyên gia kinh tế, trong thời gian tới Chính phủ cần tiếp tục chủ động, đưa ra những giải pháp hữu hiệu để hạn chế tối đa những tác động tiêu cực đem lại từ sự giảm tốc của nền kinh tế Trung Quốc.

Trước tiên là cần điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, hiệu quả, kết hợp với chính sách tài khóa, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo ổn định thị trường ngoại hối, tỷ giá, thúc đẩy xuất khẩu. Tiếp đến là thực hiện các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy xuất khẩu, kiểm soát nhập siêu, hình thành các trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu là đầu mối cung ứng cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu như: dệt may, da giày, cơ khí… Đặc biệt, Việt Nam cũng cần tìm cho mình một hướng đi mới về kinh tế để dần từng bước hạn chế sự phụ thuộc vào Trung Quốc.

 (nguồn Trung tâm Thông tin công tác tư tưởng Thành phố)