Quan điểm của C. Mác và Ph. Ăng-ghen về chế độ tư hữu, công hữu
Kinh tế nhà nước (KTNN) là một khái niệm dùng để chỉ khu vực kinh tế thuộc sở hữu của nhà nước, do nhà nước trực tiếp quản lý, điều hành và tổ chức các hoạt động sản xuất, kinh doanh thông qua bộ máy đại diện là các cơ quan quản lý nhà nước. Tuy nhiên, bản chất của KTNN trong các chế độ kinh tế khác nhau là không giống nhau. Trong chủ nghĩa tư bản độc quyền, KTNN thực chất là khu vực kinh tế của tập thể tư bản độc quyền. Ở Việt Nam, KTNN thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện quản lý. Theo Ðiều 53 của Hiến pháp năm 2013: “Ðất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”(1).
Như vậy, có thể thấy, KTNN là khái niệm mở, nội hàm rộng, không chỉ là các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) mà còn bao quát toàn bộ cơ sở vật chất, kinh tế thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý dưới nhiều dạng, thậm chí những cấu thành của chúng không thể tính toán hết được bằng tiền, như giá trị đất đai, tài nguyên khoáng sản trong lãnh thổ Việt Nam.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), KTNN được hình thành bằng nhiều con đường, như nhà nước đầu tư xây dựng mới, mua lại hoặc quốc hữu hóa khu vực kinh tế tư nhân. Sự ra đời của KTNN trong thời kỳ quá độ lên CNXH là một tất yếu khách quan, do bản chất của chế độ xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN) quy định. Chủ nghĩa xã hội phải được xây dựng dựa trên nền tảng hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Về mặt lô-gíc vận động của tiến trình lịch sử thì sự ra đời của nền tảng đó là kết quả của sự phủ định chính nền tảng của xã hội cũ – xã hội tư bản chủ nghĩa (TBCN) thông qua con đường cải biến cách mạng. Nếu xét riêng về mặt quan hệ sản xuất thì sự ra đời của chế độ công hữu là thông qua cải biến quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất mà như C. Mác và Ph. Ăng-ghen viết trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là xóa bỏ chế độ tư hữu.
Trong khi luận chứng một cách khoa học về tính tất yếu của xóa bỏ chế độ tư hữu nói chung, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã cho rằng, đó chính là sự tự phủ định với những tiền đề do sự phát triển của xã hội dựa trên chế độ tư hữu đã tạo ra. Điều đó có nghĩa là, sự ra đời của chế độ tư hữu là do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và đến lượt nó, sự phát triển của lực lượng sản xuất lại là nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi của chế độ tư hữu này bằng chế độ tư hữu khác và cuối cùng chính chế độ sở hữu tư nhân TBCN, hình thức cao nhất của chế độ tư hữu sẽ tạo ra các điều kiện tiền đề để xóa bỏ chính nó.
Trước đó, trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C. Mác và Ph. Ăng-ghen chỉ rõ: “Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là do những tiền đề hiện đang tồn tại đẻ ra”(2). Như vậy là không thể xóa bỏ chế độ tư hữu ở bất kỳ trình độ phát triển nào của nền sản xuất xã hội theo ý muốn chủ quan của con người; những người cộng sản chỉ đặt ra cho mình nhiệm vụ xóa bỏ tư hữu bằng cách xóa bỏ sở hữu tư sản mà thôi.
C. Mác và Ph.Ăng-ghen còn chỉ ra rằng, xóa bỏ chế độ tư hữu không có nghĩa là xóa bỏ sở hữu nói chung. Hình thức sở hữu mà những người cộng sản không chủ trương xóa bỏ là sở hữu cá nhân của người lao động. Trong thực tế lịch sử chế độ tư hữu ra đời từ sự phát triển của sở hữu cá nhân. Nhưng sự khác nhau giữa hai loại sở hữu đó thì rất rõ ràng. Sở hữu cá nhân là “sở hữu do cá nhân mỗi người làm ra, kết quả lao động của cá nhân”; còn chế độ tư hữu lại là “phương thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm dựa trên những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột những người kia”, mà chế độ sở hữu tư sản là biểu hiện cuối cùng và hoàn thiện nhất. Trong các xã hội có dựa trên chế độ tư hữu, sở hữu cá nhân của một số ít người được phát triển bằng cách tước đi sở hữu cá nhân của đa số những người khác. Chủ nghĩa cộng sản làm cho “sở hữu cá nhân không còn có thể biến thành sở hữu tư sản được nữa”.
Trong bộ “Tư bản”, C. Mác viết, chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa đều là sự phủ định đầu tiên đối với chế độ tư hữu cá nhân dựa trên lao động của bản thân. Nhưng nền sản xuất TBCN lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của một quá trình tự nhiên. Đó là sự phủ định cái phủ định. Sự phủ định này không khôi phục lại chế độ tư hữu mà khôi phục lại chế độ sở hữu cá nhân trên cơ sở những thành tựu của thời đại tư bản chủ nghĩa, trên cơ sở sự hiệp tác và sự chiếm hữu công cộng đối với ruộng đất và những tư liệu sản xuất do chính lao động làm ra. Như vậy, chế độ công hữu XHCN không những không loại trừ sở hữu cá nhân mà lại khôi phục sở hữu cá nhân của người lao động đã bị chế độ tư hữu phủ định. Sở hữu cá nhân ở đây không chỉ là những sản phẩm lao động với tính cách là tư liệu tiêu dùng như quan niệm lâu nay được phổ biến trên sách báo mác-xít, mà phải bao gồm cả sở hữu về tư liệu sản xuất nhưng không còn mang hình thức tư nhân mà tồn tại trong sự thống nhất với sở hữu xã hội và được khôi phục trên cơ sở cao hơn. Trong chế độ công hữu XHCN, sở hữu xã hội phải được hiểu là sở hữu của những cá nhân đã liên hiệp với nhau, “toàn bộ sản xuất đã tập trung trong tay những cá nhân đã liên hợp với nhau”, một liên hợp “trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”.
Quá trình xóa bỏ chế độ tư hữu sẽ diễn ra dần dần, không thể được thực hiện ngay lập tức, như Ph. Ăng-ghen đã viết trong “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản”. Do đó, những biểu hiện của quan niệm không tưởng về xóa bỏ tư hữu trong thời kỳ quá độ xây dựng CNXH là hoàn toàn xa lạ với quan điểm của các nhà kinh điển mác-xít.
Vậy chế độ công hữu XHCN như vậy sẽ ra đời với những hình thức và bước đi như thế nào? Với cách tiếp cận chủ nghĩa cộng sản một cách khoa học, C. Mác và Ph. Ăng-ghen trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã chỉ ra rằng, công cuộc xây dựng CNXH nói chung, xác lập chế độ công hữu nói riêng, phải được thực hiện với những biện pháp phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể. Trong những nước khác nhau, những biện pháp ấy dĩ nhiên sẽ khác nhau rất nhiều. Các ông đã vạch ra một số biện pháp được cho là có thể áp dụng đối với những nước tiên tiến. Đó là tước đoạt sở hữu ruộng đất và trao nộp tô vào quỹ chi tiêu của nhà nước; xóa bỏ quyền thừa kế; áp dụng thuế lũy tiến cao; tịch thu tài sản của những kẻ lưu vong, phiến loạn; tập trung tín dụng, các phương tiện vận tải vào trong tay nhà nước; tăng thêm công xưởng nhà nước… Nhưng cần nhớ rằng, đó lại là những điều mà 20 năm sau các ông cho rằng ngày nay mà viết lại thì về nhiều mặt, cũng phải viết khác đi. Với tinh thần ấy, rõ ràng việc xây dựng chế độ công hữu phải được thực hiện trên cơ sở vận dụng linh hoạt các hình thức cho phù hợp với tình hình cụ thể, không thể dập khuôn, máy móc, đặc biệt với các nước chưa qua chế độ TBCN.
C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã chỉ rõ, CNXH hiện thực ra đời và được xây dựng trong điều kiện các nước chưa có chủ nghĩa tư bản phát triển, việc xác lập chế độ công hữu XHCN phải là quá trình tìm tòi sáng tạo những hình thức và bước đi thích hợp. Không những thế, chế độ tư hữu nhỏ còn tồn tại một cách phổ biến và sự phát triển tư bản, như V.I. Lê-nin từng nói, còn là không tránh khỏi. Việc tìm ra những “hình thái quá độ”, “những khâu trung gian” để đi tới chế độ công hữu là hết sức cần thiết, không những để chuyển từ phương thức sản xuất TBCN sang phương thức sản xuất XHCN mà còn để đưa nền sản xuất nhỏ đi lên CNXH. Đối với một sự nghiệp lớn lao và mới mẻ như vậy thì những thiếu sót, khuyết điểm mắc phải trong quá trình tìm tòi, thử nghiệm là khó tránh khỏi. Nhưng việc tuyệt đối hóa hình thức công hữu theo mô hình Xô-viết và nhất là biến cách thực hiện xóa bỏ tư hữu, xác lập chế độ công hữu trong điều kiện lịch sử cụ thể nước Nga thành nguyên tắc, thành quy luật phổ biến của CNXH thì lại là sai lầm của chủ nghĩa chủ quan, giáo điều.
Phải thừa nhận rằng, trong thực tiễn xây dựng CNXH, việc xóa bỏ chế độ tư hữu, xác lập chế độ công hữu có những khuyết điểm, sai lầm mang tính chất không tưởng. Nhưng lại là sai lầm to lớn nếu xem đó là hệ quả tất nhiên của tính chất không tưởng trong quan điểm của C. Mác và Ph. Ăng-ghen về xóa bỏ chế độ tư hữu trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”. Thực hiện những mục tiêu của CNXH trên cơ sở chế độ tư hữu là một ảo tưởng của trào lưu XHCN mà các ông gọi là “Chủ nghĩa xã hội bảo thủ hay chủ nghĩa xã hội tư sản”; ngày nay nó đã bị sụp đổ cùng với sự thất bại của mô hình được xem là lý tưởng nhất của nó. Vậy phải chăng theo C. Mác và Ph. Ăng-ghen, trong CNXH chế độ tư hữu nói chung không có tư hữu tư sản sẽ được duy trì? Đó lại là quan niệm của “chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản” mà các ông đã phê phán, vạch trần tính chất vừa phản động, vừa không tưởng của nó. Trong điều kiện nền kinh tế đa sở hữu còn là tất yếu khách quan thì bằng cách nào để đi tới CNXH, nếu không làm cho chế độ công hữu với nhiều hình thức khác nhau trở thành nền tảng.
Những giải pháp căn bản nhằm phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
Từ những phân tích trên đây cho thấy, xây dựng chế độ công hữu với những hình thức cụ thể của nó là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là một quá trình cải biến cách mạng lâu dài và với các nước quá độ lên CNXH không qua chế độ TBCN như Việt Nam lại càng lâu dài hơn. Theo đó, việc xác định vai trò chủ đạo của KTNN, cũng như việc xóa bỏ thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân là tất yếu khách quan, nhưng phải được tiến hành từng bước phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế. Mọi biểu hiện muốn xác lập ngay vai trò chủ đạo của KTNN ở mọi lĩnh vực của nền kinh tế và xóa bỏ ngay hoàn toàn các hình thức kinh tế dựa trên tư hữu là trái với tư tưởng của các nhà kinh điển mác-xít.
Nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, đồng thời phát huy hơn nữa vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, cần thực hiện đồng bộ và quyết liệt một số giải pháp sau:
Một là, đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước (DNNN).
Căn cứ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội trong từng thời kỳ, tiến hành rà soát, xác định rõ số lượng và phạm vi ngành, lĩnh vực có DNNN, doanh nghiệp có vốn nhà nước để xây dựng kế hoạch cơ cấu lại DNNN, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước.
Rà soát, đánh giá toàn diện thực trạng và phân loại các DNNN, dự án, công trình đầu tư và vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp để có giải pháp cơ cấu lại, xử lý phù hợp. Kiên quyết xử lý dứt điểm các DNNN, các dự án đầu tư thua lỗ, kém hiệu quả. Làm rõ trách nhiệm và xử lý nghiêm những vi phạm của các tổ chức, cá nhân liên quan để xảy ra tình trạng DNNN, dự án đầu tư thua lỗ, thất thoát, lãng phí lớn.
Tuân thủ pháp luật, tôn trọng cơ chế thị trường, thực hiện lộ trình cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Áp dụng các phương pháp định giá tài sản tiên tiến phù hợp cơ chế thị trường; bảo đảm vốn, tài sản của Nhà nước và giá trị doanh nghiệp được định giá đầy đủ, hợp lý, công khai, minh bạch. Hoàn thiện thể chế định giá đất đai, tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong cổ phần hóa theo cơ chế thị trường.
Hoàn thiện đầy đủ hồ sơ pháp lý của các tài sản trước khi tiến hành sắp xếp cổ phần hóa hay thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả các thiết chế hiện có để hỗ trợ cơ cấu lại DNNN, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Hai là, tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để DNNN thật sự vận hành theo cơ chế thị trường.
Doanh nghiệp nhà nước tham gia thực hiện nhiệm vụ chính trị, xã hội do Nhà nước giao thực hiện, theo cơ chế Nhà nước đặt hàng, lựa chọn cạnh tranh, công khai và xác định rõ vốn, chi phí thực hiện, trách nhiệm và quyền lợi của Nhà nước, DNNN để bảo đảm không làm giảm hiệu quả kinh doanh của DNNN. Quan hệ kinh tế, tài chính giữa Nhà nước và DNNN, nhất là các quyền và nghĩa vụ phải được thực hiện đầy đủ, minh bạch theo quy định của pháp luật và phù hợp với cơ chế thị trường.
Xóa bỏ các chính sách can thiệp hành chính trực tiếp, bao cấp dành cho DNNN, tình trạng đối xử bất bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, nhất là trong quá trình tiếp cận các nguồn lực nhà nước, tín dụng, đất đai, tài nguyên, cơ hội đầu tư, kinh doanh, tài chính, thuế…
Phát huy vai trò mở đường, dẫn dắt của DNNN trong việc hình thành và mở rộng chuỗi sản xuất, cung ứng và chuỗi giá trị trong nước, khu vực và thế giới. Hạn chế tình trạng sản xuất, kinh doanh khép kín, cục bộ, không minh bạch trong DNNN, đặc biệt là trong các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.
Ba là, đổi mới, nâng cao hiệu quả hệ thống quản trị và năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ quản lý DNNN.
Xây dựng và áp dụng khung quản trị doanh nghiệp với các nguyên tắc phù hợp với chuẩn mực quốc tế tại các DNNN, nhất là đối với các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước; đi đôi với việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực quản trị, điều hành của cán bộ và tạo lập môi trường quản trị doanh nghiệp lành mạnh, hiệu quả.
Củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước đa sở hữu với quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế ở một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế trên cơ sở hoàn thiện mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước theo thông lệ quốc tế. Kiên quyết đấu tranh và thiết lập các hệ thống quản trị, kiểm soát nội bộ có hiệu quả trong việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, xung đột lợi ích. Xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các chức danh quản lý trong hệ thống quản trị, điều hành và tác nghiệp của DNNN; bảo đảm trách nhiệm đi đôi với quyền hạn. Nâng cao tiêu chuẩn, điều kiện, trách nhiệm của thành viên độc lập trong hội đồng quản trị.
Hoàn thiện các hệ thống khuyến khích, đòn bẩy kinh tế đi đôi với việc nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương, tính công khai, minh bạch và giải trình của DNNN. Thực hiện cơ chế tiền lương, tiền thưởng, thù lao của người lao động và người quản lý DNNN phù hợp với cơ chế thị trường. Thực hiện tách người quản lý DNNN khỏi chế độ viên chức, công chức. Triển khai rộng rãi cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm qua thi tuyển cạnh tranh, công khai, minh bạch đối với tất cả các chức danh quản lý, điều hành và các vị trí công việc khác trong doanh nghiệp.
Bốn là, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với DNNN.
Hoàn thiện chức năng quản lý của Nhà nước đối với DNNN. Rà soát, hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách về DNNN. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả công tác tranh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước đối với DNNN. Tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch, phương án cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước đã được phê duyệt.
Hoàn thiện tổ chức để thực hiện chức năng Nhà nước là chủ sở hữu đối với DNNN, cổ phần, góp vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp. Nhà nước thực hiện đầy đủ trách nhiệm của chủ sở hữu đối với DNNN, cổ phần, vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp. Bảo đảm quyền tự chủ trong hoạt động của DNNN theo nguyên tắc thị trường. Tôn trọng tính độc lập trong việc thực hiện quyền và trách nhiệm của hội đồng thành viên, hội đồng quản trị, chủ tịch hội đồng thành viên, tổng giám đốc, ban điều hành DNNN để hoạt động và quản trị của DNNN thực hiện một cách minh bạch, giải trình, chuyên nghiệp, hiệu quả cao. /.
———————————————————-
(1) Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật: http://vbpl.vn/Pages/portal.aspx
(2) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 3, tr. 51