Mỹ tuy là quốc gia đặt vấn đề bình quyền, bình đẳng nam nữ trong các chính sách từ một thế kỷ qua, nhưng chưa một phụ nữ nào được bầu làm người lãnh đạo quốc gia. Quốc hội Mỹ một thời có nữ giữ chức Chủ tịch Hạ viện – người đứng thứ nhì về quyền kế vị tổng thống, chỉ sau phó tổng thống, đó là Hạ nghị sĩ đảng Dân chủ Nancy Pelosi, giữ chức vụ này từ năm 2007 đến 2011.
Ưu tiên nữ quyền hay cần thay đổi?
Hiện nay, số nữ thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ Quốc hội Mỹ vẫn ở mức tương đối thấp là 20%. Thượng viện với 20 phụ nữ trong tổng số 100 thượng nghị sĩ và tại Hạ viện có 104/435 hạ nghị sĩ. Trong số các nữ nghị sĩ, đảng Dân chủ chiếm đa số với 14/20 ở Thượng viện và gần 3/4 ở Hạ viện.
Trong chính trường Mỹ, đã 2 lần có cơ hội có nữ phó tổng thống nhưng không thành hiện thực. Năm 1984, cựu Phó Tổng thống Walter Mondale được đảng Dân chủ đề cử và đã chọn nữ Hạ nghị sĩ Geraldine Ferraro làm ứng viên phó tổng thống. Nhưng cử tri Mỹ năm đó đã không chọn liên danh Mondale-Ferraro. Đến kỳ bầu cử năm 2008, ứng viên đảng Cộng hòa là Thượng nghị sĩ John McCain chọn nữ Thống đốc Alaska là Sarah Palin đứng chung liên danh nhưng cũng không thành công.
Bà Clinton có nhiều kinh nghiệm chính trường vì từng là thượng nghị sĩ, từng là người đứng đầu ngành ngoại giao Mỹ nên am hiểu tình hình quốc tế, có kinh nghiệm làm việc với lãnh đạo của nhiều quốc gia trên thế giới. 8 năm trước, bà Clinton tranh cử cũng đã gần được chọn làm ứng viên chính thức chỉ thua ông Barack Obama tại kỳ Đại hội đảng Dân chủ.
Trái lại, ông Donald Trump là một hiện tượng gây nhiều ngạc nhiên trên chính trường Mỹ trong kỳ bầu cử năm nay. Tỷ phú Trump bỏ tiền túi ra tranh cử chứ không trông đợi nhiều vào sự đóng góp của những người ủng hộ, của những tổ chức tài chính hay những cơ sở vận động hành lang. Ông Trump chưa bao giờ tham gia chính trường mà chỉ có nhiều kinh nghiệm trên thương trường với những thành công nhờ đầu tư nhà đất, những chương trình quảng bá thương mại, những show truyền hình. Thương hiệu Trump có trên những tòa nhà cao tầng sang trọng ở New York, Las Vegas, Hawaii. Donald Trump đã vượt qua 17 ứng viên khác đầy kinh nghiệm chính trị của đảng Cộng hòa.
Tuy nội bộ Đảng Cộng hòa có nhiều bất đồng với ông Donald Trump vì những phát biểu thẳng thừng gây sốc, những lời lẽ thóa mạ gây đụng chạm hay làm mất lòng một số người, nhưng rõ ràng là đa số cử tri Cộng hòa đã tin tưởng và tín nhiệm ông.
Tuy ông Donald Trump thiếu kinh nghiệm chính trường, nhưng nhìn lại lịch sử Mỹ trong nửa thế kỷ qua, từ thời John F. Kennedy làm tổng thống, tâm lý cử tri Mỹ cũng không muốn thấy một tổng thống từ một đảng nắm quyền quá lâu. Trong hơn nửa thế kỷ qua, chỉ có đảng Cộng hòa nắm quyền 3 nhiệm kỳ liên tục từ 1981 đến 1993, với Tổng thống Ronald Reagan 2 nhiệm kỳ (1981-1989) rồi thêm một nhiệm kỳ nữa với Tổng thống George H.W. Bush (1990-1993). Còn lại, 2 đảng đã thay nhau làm chủ Nhà Trắng chỉ 8 năm hoặc ít hơn.
Chủ nhân mới của Nhà Trắng, dù là bà Hillary Clinton hay ông Donald Trump, cũng sẽ đi vào lịch sử khi nước Mỹ có phụ nữ đầu tiên hoặc tỷ phú đầu tiên trở thành tổng thống.
2 tính cách khác biệt
Cách xuất hiện của ứng viên Tổng thống đảng Cộng hòa Donald Trump và ứng viên Tổng thống đảng Dân chủ Hillary Clinton rất khác biệt. Thể hiện tại Đại hội toàn quốc đảng Cộng hòa ở Cleveland, ông Trump xuất hiện nhiều trong đại hội vì ông này là “bậc thầy” về tiếp cận nền tảng phương tiện truyền thông toàn cầu để gây sự chú ý của thế giới. Trái lại, bà Clinton gần như không xuất hiện tại Đại hội của đảng Dân chủ, ngay cả khi chính thức được đề cử, bà Clinton chỉ xuất hiện trong bài phát biểu qua băng ghi hình và sau đó là đến ôm hôn Tổng thống Mỹ đương nhiệm Barack Obama sau bài phát biểu của ông kêu gọi cử tri bầu cho bà Clinton. Dĩ nhiên sau đó, thêm một lần bà Clinton bắt buộc phải xuất hiện là để đọc bài diễn văn chấp nhận đề cử của đảng Dân chủ.
Thậm chí, ngay cả khi Đại hội đảng Dân chủ đang diễn ra, ông Trump cũng đã lên tiếng kêu gọi các hacker Nga tung ra những nội dung email của bà Clinton mà họ có được.
Một trong những nguyên nhân ông Trump xuất hiện thoải mái trước giới truyền thông hơn bà Clinton là vì bà Clinton từng gặp thất bại trong cuộc đua nội bộ giành quyền tranh cử trong đảng Dân chủ nên bà tỏ ra thận trọng trước phương tiện truyền thông. Bà Clinton cũng thường vận dụng yếu tố lịch sử và bối cảnh khi được hỏi một vấn đề, còn ông Trump chọn cách trả lời thẳng thừng. Chẳng hạn, trả lời về vấn đề nhập cư, bà Clinton lùi lại lịch sử thời người châu Phi đến Mỹ, sau đó đưa ra ý kiến trung dung hơn là kiểu đòi cấm tiệt người nhập cư như ông Trump.
Chính sách mở hay không?
Theo nhận định của Phó Giáo sư Thitinan Pongsudhirak, Giám đốc Viện Nghiên cứu an ninh và quan hệ quốc tế, Khoa Chính trị, Đại học Chulalongkorn của Thái Lan, một trong những chính sách quan trọng của Mỹ là “tái cân bằng” (xoay trục) sang châu Á sẽ là một di sản được nhiều người nhắc tới trong số những thành tựu chính sách đối ngoại của Tổng thống Obama. Chính sách này đã đem đến sự hài lòng cho các nước châu Á, một đối trọng với ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực. Thế nhưng, tương lai của chính sách tái cân bằng lại đang bấp bênh.
Á, Âu đều e ngại ông Trump
Trong bối cảnh đó, nếu bà Hillary Clinton đắc cử tổng thống, nhiều khả năng bà sẽ duy trì và mở rộng hơn nữa chính sách tái cân bằng của Mỹ sang châu Á, bởi bà là “kiến trúc sư” chính của chiến lược này khi giữ vị trí ngoại trưởng trong nhiệm kỳ đầu của ông Obama. Trong khi ông Trump sẽ từ bỏ vai trò của Mỹ ở châu Á và những nơi khác trên thế giới để phục vụ cho các mục tiêu của chủ nghĩa biệt lập và bài ngoại.
Theo ông các chuyên gia, ASEAN và hầu hết các nước châu Á khác muốn chính sách tái cân bằng tiếp tục, theo cách không dẫn đến xung đột giữa các cường quốc, cho phép ASEAN duy trì quyền tự chủ, phát triển kinh tế, đảm bảo hòa bình và ổn định khu vực.
Các nước đồng minh của Mỹ ở châu Âu, kể cả thành viên NATO cũng lo lắng, nếu trở thành tổng thống, ông Donald Trump sẽ chấm dứt hỗ trợ của Mỹ dành cho NATO, đồng thời tìm kiếm các mối quan hệ gần gũi hơn với Tổng thống Nga Vladimir Putin. Những mối quan tâm gia tăng đặc biệt với các thành viên NATO khi ông Trump cho biết, chỉ sẽ bảo vệ các thành viên NATO ở Đông Âu tùy theo mức đóng góp của từng nước cho NATO chứ không phải là nghĩa vụ theo Hiệp ước NATO.
Vấn đề |
Bà Clinton |
Ông Trump |
Quyền phá thai không hạn chế |
Ủng hộ mạnh |
Không ủng hộ |
Hôn nhân đồng tính |
Ủng hộ mạnh |
Không ủng hộ |
Quyền sở hữu súng đạn tuyệt đối |
Không ủng hộ |
Ủng hộ mạnh |
Gia tăng các biện pháp trừng phạt để giảm tội phạm |
Không ủng hộ |
Ủng hộ mạnh |
Mở rộng luật bảo hiểm y tế Obamacare |
Ủng hộ mạnh |
Không ủng hộ |
Ưu tiên cho năng lượng xanh |
Ủng hộ mạnh |
Phản đối mạnh |
Dùng biện pháp kích thích hơn là để thị trường tự quyết định trong việc phục hồi kinh tế |
Ủng hộ mạnh |
Phản đối mạnh |
Tăng thuế người giàu |
Ủng hộ mạnh |
Ủng hộ |
Mở đường để người nhập cư bất hợp pháp trở thành công dân Mỹ |
Ủng hộ mạnh |
Phản đối mạnh |
Hỗ trợ và mở rộng tự do mậu dịch |
Không ủng hộ |
Phản đối mạnh |
Gia tăng chi tiêu quân sự |
Không ủng hộ |
Ủng hộ |
Tránh đối đầu ngoại giao |
Không ủng hộ |
Ủng hộ |
Bảo hộ mậu dịch sẽ là xu thế mới
Từ bảng trên có thể thấy, chỉ hai vấn đề có sự đồng thuận giữa bà Clinton và ông Trump: vấn đề tăng thuế người giàu và hạn chế tự do thương mại. Vấn đề tăng thuế của giới nhà giàu có thể là cách tăng thêm ngân quỹ, nhất là khi nền kinh tế Mỹ chưa hồi phục hoàn toàn do khủng hoảng tài chính năm 2008. Cuộc khủng hoảng đó được cho là một phần do giới tài phiệt nhà giàu, nhất là ở Wall Street gây ra và cuộc khủng hoảng cho thấy sự cách biệt giàu nghèo quá lớn ở Mỹ. Điều đó khiến ông Obama và có thể cả những tổng thống Mỹ sau này đều muốn siết chặt các quy định với Wall Street nói riêng và giới nhà giàu ở Mỹ nói chung.
Tuy nhiên, vấn đề đáng lo ngại cho mậu dịch toàn cầu là chính sách bảo hộ mậu dịch khi cả bà Clinton và ông Trump đều không ủng hộ mở rộng chính sách tự do thương mại của Mỹ. Theo tạp chí Fortune, sự giống nhau của hai ứng viên Donald Trump và Hillary Clinton còn ở chỗ họ đều phản đối Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định tư do thương mại Bắc Mỹ (NAFTA). Giới đầu tư nhận định, chính sách kinh tế của ông Trump có phần lỏng lẻo hơn so với bà Clinton và nếu ông này thắng cử, nhiều khả năng Mỹ sẽ gia tăng lạm phát, giảm GDP và ông ấy sẽ áp đặt thuế nhập khẩu cao đối với hàng hóa châu Á và phát động chiến tranh tiền tệ.
Cả ông Trump và bà Clinton đang cố gắng giành phiếu của những người Mỹ đã đổ lỗi cho các hiệp định thương mại làm họ thất nghiệp hoặc gây tràn ngập các sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài. Bà Clinton tin rằng các thỏa thuận thương mại cần có lợi cho nhân dân Mỹ theo 3 tiêu chí cho bất kỳ thỏa thuận nào, gồm: tạo ra việc làm cho dân Mỹ, tăng lương cho người lao động Mỹ và thúc đẩy an ninh quốc gia của Mỹ.
Số liệu thống kê từ Cục Thống kê Bộ Lao động Mỹ cho biết, vào tháng 6-1979, Mỹ có 19.553.000 công nhân sản xuất và đến tháng 6/2016, con số này chỉ còn 12.296.000 người. Tuy nhiên, ngày nay Mỹ sản xuất hàng hóa trị giá hơn 78% (tính theo USD) so với năm 1979, khi số lượng công nhân giảm hơn 37%. Đây là một hiện tượng toàn cầu. Ở khắp mọi nơi trên trái đất, mỗi ngày, người kinh doanh tìm ra cách để giảm nhân công và xu hướng đó sẽ không thể đảo ngược. Tạp chí Fortune kết luận rằng: Các nhà hoạch định chính sách Mỹ khôn ngoan không nên than vãn thực tế này hoặc cố gắng để “mang quá khứ” trở lại, thay vào đó họ nên nhận thức về sự thay đổi. Mỹ sẽ không bao giờ sử dụng lao động với con số của năm 1979, cho dù họ có thể hạn chế giao dịch thương mại.
(nguồn Trung tâm Thông tin công tác tư tưởng Thành phố)